Bản án 236/2018/HS-ST ngày 29/08/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 236/2018/HS-ST NGÀY 29/08/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 224/2018/TLST-HS ngày 07 tháng 8 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 242/2018/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:

Trần Công T, sinh năm 1988 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: Số 13/50 khu phố B M 2, phường D A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; chỗ ở: Tổ S, khu phố Đ Th, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Công H (đã chết) và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1960; bị cáo có 01 em ruột, sinh năm 1996; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 21/7/2010 bị Tòa án nhân dân huyện Dĩ An (nay là thị xã Dĩ An), tỉnh Bình Dương xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo bản án số 159/2010/HSST, chấp hành xong hình phạt ngày 25/9/2015; bị bắt tạm giam ngày 16/5/2018, có mặt.

- Bị hại: Ông Nguyễn Quốc T1, sinh năm 1980; thường trú: Tổ M, khu phố A Th, phường Th H, thị xã T Uy, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

* Người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng: Bà Phạm Thị L, sinh năm 1956; địa chỉ: Số 214, khu phố 1B, phường A Ph, thị xã Th A, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 13/5/2018, Trần Công T cùng người bạn tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) đi chơi ngang khu vực đường liên huyện thuộc tổ MS, khu phố T Ph, phường T B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương thì thấy ông Nguyễn Quốc T1 say rượu, ngã xe nằm bất tỉnh bên lề đường, bên cạnh ông Nguyễn Quốc T1 có 01 chiếc điện thoại di động hiệu Apple Iphone 6 – 32Gb. Thấy vậy Trần Công T liền lấy điện thoại bỏ vào túi quần của mình. Lúc này có người dân bên đường đi ra xem nên T nhanh chóng ngồi lên xe mô tô (không rõ  biển số) để cho H chở đi.

Về phía ông Nguyễn Quốc T1, sau khi bà Phạm Thị L nhà gần chỗ T1 ngã xe đưa vào nhà, cho uống nước thì tỉnh lại và phát hiện bị mất 01 điện thoại di động hiệu Apple Iphone 6 – 32Gb và 01 điện thoại di động hiệu Apple Iphone 4. Đến ngày 16/5/2018 ông Nguyễn Quốc T1 mở định vị thì phát hiện điện thoại di động hiệu Apple Iphone 6 – 32Gb của mình đang ở vị trí đường L H Ph, khu phố Đ Th, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương nên trình báo Công an. Nhận được tin báo, Công an phường T Đ H đến nơi định vị thì phát hiện Trần Công T đang cầm trên tay chiếc điện thoại của ông Nguyễn Quốc T1 nên mời về trụ sở Công an làm việc. Tại Công an phường T Đ H, Trần Công T khai nhận toàn bộ hành vi chiếm đoạt tài sản của mình.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) điện thoại di động hiệu Apple Iphone 6 – 32Gb, số Imei: 354444065761621.

Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 135/BB.ĐG ngày 23/5/2018 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An kết luận: 01 (một) điện thoại di động hiệu Apple Iphone 6 – 32Gb có trị giá 4.000.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì Kết luận định giá số 135/BB.ĐG ngày 23/5/2018 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Đối 01 điện thoại di động hiệu Apple Iphone 4, hiện chưa xác định được người chiếm đoạt nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Tại Cáo trạng số 233/CT-VKS ngày 07 tháng 8 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố Trần Công T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Công T về tội “Trộm cắp tài sản” đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Trần Công T từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng.

Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt trả lại cho bị hại Nguyễn Quốc T1, bị hại không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự không đặt ra xem xét.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt và bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Khoảng 22 giờ ngày 13/8/2018, tại tuyến đường liên huyện thuộc tổ MS, khu phố T Ph, phường T B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, lợi dụng bị hại Nguyễn Quốc T1 say rượu, ngã xe nằm bất tỉnh; bị cáo Trần Công T lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Apple Iphone 6 – 32Gb có trị giá 4.000.000 đồng.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;

đ) Tài sản là di vật, cổ vật…”

Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo Trần Công T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản’’ theo quy định khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo, bị hại và người làm chứng trong quá trình điều tra và các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, Cáo trạng số 233/CT-VKS ngày 07 tháng 8 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên truy tố bị cáo Trần Công T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Hành vi của bị cáo lợi dụng sự say rượu, ngã xe nằm bất tỉnh của bị hại chiếm đoạt 01 thoại di động hiệu Apple Iphone 6 – 32Gb có giá trị 4.000.000 đồng là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ. Về nhận thức bị cáo hoàn toàn biết hành vi trộm cắp tài sản của người khác là trái pháp luật nhưng vì lòng tham, muốn kiếm tiền nhanh chóng không phải lao động để phục vụ nhu cầu bản thân mà bị cáo cố tình thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

Tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trần Công T có một tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 159/2010/HSST, chấp hành xong hình phạt ngày 25/9/2015, chưa được xóa án tích nay tiếp tục phạm tội mới do cố ý thuộc trường hợp “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc thiệt hại không lớn; Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu thể hiện bị cáo có 01 tiền án về tội Mua bán trái phép chất ma túy nhưng không lấy đó làm bài học tu dưỡng rèn luyện bản thân mà tiếp tục hành vi phạm tội đồng thời bị cáo là người không có nghề nghiệp nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Đối 01 điện thoại di động hiệu Apple Iphone 4, hiện chưa xác định được người chiếm đoạt nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau là đúng theo quy định của pháp luật.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án đã thu hồi trả lại cho bị hại Nguyễn Quốc T1, bị hại không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đưa ra đối với bị cáo về các tình tiết giảm nhẹ, mức hình phạt, nhân thân và trách nhiệm dân sự. Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp, có cơ sở chấp nhận.

Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Công T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trần Công T 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/5/2018.

2. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Trần Công T phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt bản án hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 236/2018/HS-ST ngày 29/08/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:236/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về