Bản án 236/2017/HSST ngày 26/10/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 236/2017/HSST NGÀY 26/10/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 10 năm 2017, tại Nhà văn hóa phường Cầu Diễn, quận NamTừ Liêm, thành phố Hà Nội, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 275/2017/HSST, ngày 13/10/2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Minh T, sinh năm 1971; Giới tính: Nam; Đăng ký nhân khẩu thường trú: Số 4, nhà D2, khu tập thể L, tổ 8, phường V, quận H, thành phố H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 11/12; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn T, sinh năm 1932 (Đã chết) và bà Vương Thị T, sinh năm 1942, Vợ: Nguyễn Thị T (Đã ly hôn); Có 01 con sinh năm 1997.

Nhân thân:

- Bản án số 34/HSST ngày 27/9/1993, Tòa án nhân dân thị xã Hà Đông xử06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản công dân (Đã xóa án tích).

- Ngày 05/3/1994, Công an thị xã Hà Đông bắt về hành vi Trộm cắp tài sản công dân, danh bản số 183 lập ngày 10/3/1994.

- Ngày 15/5/1997, Công an thành phố Hà Nội bắt về hành vi Hiếp dâm, danh bản số 261 lập ngày 12/6/1997.

- Bản án số 55/HSPT ngày 25/01/1999, Tòa án nhân dân Tối cao xử phạt 04 năm tù về tội Môi giới mại dâm. Ra trại ngày 07/4/2002 (Đã xóa án tích).

- Bản án số 113/HSST ngày 18/10/2002, Tòa án nhân dân thị xã Hà Đông xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ra trại ngày 13/01/2015 (Đã xóa án tích).

- Ngày 18/01/2007, Công an thành phố Hà Nội bắt về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, phạt hành chính.

- Bản án số 22/2008/HSST ngày 25/01/2008, Tòa án nhân dân thành phố Hà Đông xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Ra trại ngày 13/10/2013 (Đã xóa án tích).

Danh chỉ bản số 0405 lập ngày 04/7/2017 tại Công an quận Nam Từ Liêm; Bắt tạm giam ngày 28/6/2017 – Có mặt tại phiên toà.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Bùi Văn C, Sinh năm 1988. HKTT: Tổ 4, phường P, quận N, thành phố H- Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14h ngày 28/6/2017, tại trước cửa nhà nghỉ Hưng Hà số 110, khu 3, Liên Cơ đường 70, phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội, tổ công tác Công an phường Phú Đô phát hiện bắt quả tang Nguyễn Minh T đang có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Bùi Văn C (SN 1988, NKTT: Tổ 4, phường Phú Đô, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội), thu giữ vật chứng:

- Thu giữ của Nguyễn Minh T:

+ 01 túi nilon chứa tinh thể màu trắng;

+ 01 điện thoại di động Nokia 1280 màu xám đen;

+ 01 chứng minh nhân dân tên Nguyễn Minh T;

+ 01 xe mô tô Honda Airblade màu Đỏ - đen BKS: 30Y7-6638 SM:6661111, SK: 18057Y06411.

- Thu giữ của Bùi Văn C:

+ Số tiền 500.000 đồng.

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Viettel màu đỏ.

Quá trình điều tra xác định: Khoảng 13h ngày 28/6/2017, Bùi Văn C gọi điện thoại cho Nguyễn Minh T hỏi mua 1.000.000 đồng ma túy đá về sử dụng. Nhưng Tiến nói không có đủ 1.000.000 đồng mà chỉ có ít hơn. Khoảng 13h30’ cùng ngày, Bùi Văn C gọi điện thoại lại bảo Nguyễn Văn Tiến bán cho 500.000 đồng ma túy đá mang đến nhà nghỉ Hưng Hà, số 110 đường 70, khu Liên Cơ, Đại Mỗ. Đến 14h khi Tiến đi xe máy Airblade BKS: 30Y7-6638 đến đang giao nhận tiền và ma túy với C thì bị Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ trên tay Nguyễn Minh T 01 túi nilon ma túy đá và thu giữ trên tay phải C số tiền 500.000 đồng.

Tại Bản kết luận giám định số 4431/KLGĐ-PC 54 ngày 24/7/2017 củaPhòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội xác định:

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon (thu giữ của Nguyễn Minh T) là ma túy loại Methamphetamine, trọng lượng 0,923 gam.

Về nguồn gốc ma túy Nguyễn Minh T khai mua 500.000 đồng của một thanh niên không quen biết ở đường Sa Đôi, tổ dân phố Liên Cơ, phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội, tối ngày 27/6/2017 đã sử dụng một phần còn lại mang bán cho Bùi Văn C.

Đối với chiếc xe Honda Airblade BKS: 30Y7-6638, Nguyễn Minh T khai của một người phụ nữ đặt cho Tiến để vay 2.000.000 đồng trước ngày bị bắt khoảng 2 tuần, hẹn hôm sau quay lại trả tiền nhưng không thấy quay lại nên Tiến sử dụng xe này để đi lại cho đến khi bị bắt.

Xác minh xe mô tô Honda Airblade BKS: 30Y7-6638, SM:6661111, SK06411 không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng, không thấy dữ liệu tra cứu theo chỉ tiêu tìm kiếm.

Xác minh xe mô tô BKS 30Y7-6638 là xe Leade màu vàng – đen SM 0136203, SK 524604 chủ xe anh Đặng Văn Hùng (SN 1985, NKTT: Thôn Duyên Ứng, xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội).

Tại Bản kết luận giám định số 5675/KL-PC54-DD3 ngyaf 09/10/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội xác định: Xe máy Honda Airblade BKS: 30Y7-6638 gửi giám định có số khung RLHJF18057Y06411 bị đóng lại 06 ký tựi cuối cùng “Y06411” không xác định được số khung nguyên thủy của xe. Số máy JF18E-6661111 bị đóng lại 07 ký tự ở hàng thứ hai “6661111”, xác định số máy nguyên thủy của xe là JF18E-???2777 (ký tự “?” không xác định được).

Không giám định BKS 30Y7-6638 do không có mẫu so sánh.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Minh T khai nhận đây là lần đầu tiên bán ma túy.

Tại bản cáo trạng số 253/CT-VKS ngày 10/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm thì Nguyễn Minh T bị truy tố về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Tiến khai nhận hành vi của mình, thành khẩn nhận tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quan điểm như cáo trạng truy tố và kết luận bị cáo Nguyễn Minh T đã phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự. Sau khi đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, xem xét tình tiết giảm nhẹ, đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ...................................................và xử lý vật chứng:………...

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm pháp quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định, phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 14h ngày 28/6/2017, tại trước cửa nhà nghỉ Hưng Hà số 110, khu 3, Liên Cơ đường 70, phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội, tổ công tác Công an phường Phú Đô, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội phát hiện bắt quả tang Nguyễn Minh T đang có hành vi bán trái phép 01 gói Methamphetamine trọng lượng 0,923 gam cho Bùi Văn C thì bị bắt quả tang cùng vật chứng . Hành vi của bị cáo Linh đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự. Như cáo trạng của Viện kiểm sát là hoàn toàn có căn cứ phù hợp pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền kiểm soát các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Bị cáo có nhân thân xấu. Do đó, cần phải xử lý nghiêm, áp dụng mức hình phạt tù giam cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng bị cáo cũng như răn đe phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét bị cáo khai báo thành khẩn, thái độ ăn năn hối cải để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản, thu nhập nên không áp dụng hình phạt tiền.

Về vật chứng vụ án: Số ma túy đã thu giữ cần tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động Nokia 1280 màu xám đen, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Viettel màu đỏ 01 xe mô tô Honda Airblade màu đỏ đen số máy ???2777, số khung không xác định được, xe đeo biển kiểm soát 30Y7-6638 và 500.000 đồng là tài sản liên quan đến hành vi phạm tội nên tịch thu sung quỹ nhà nước; Trả lại bị cáo Tiến 01 chứng minh nhân dân.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí và có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma y”.

2- Áp dụng: - Khoản 1 Điều 194; Điều 33; Điều 41; Điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự;

- Điều 76, Điều 99, Điều 231, Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt Nguyễn Minh T.................................................... Thời hạn tù tính từ ngày 28/6/2017.

* Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa ma túy, có chữ ký của Nguyễn Minh T và giám định viên; Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động Nokia 1280 màu xám đen, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Viettel màu đỏ, 01 xe mô tô Honda Airblade màu đỏ đen số máy ???2777, số khung không xác định được, xe đeo biển kiểm soát 30Y7-6638 và 500.000 đồng, trả lại bị cáo Tiến 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Minh T.

Theo biên bản giao nhận vật chứng số 06 ngày 11/10/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội và Giấy nộp tiền vào tài khoản số 3949 ngày 11/10/2017 tại kho bạc nhà nước quận Nam Từ Liêm.

* Án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 236/2017/HSST ngày 26/10/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:236/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về