Bản án 235/2019/HS-ST ngày 28/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 235/2019/HS-ST NGÀY 28/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 227/2019/TLST-HS ngày 01/8/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 241/2019/QĐXXST-HS ngày 01/8/2019, đối với bị cáo:

Trần Văn N; sinh năm: 1994; tại: Cà Mau; hộ khẩu thường trú: Ấp 2, xã x, huyện y, tỉnh Cà Mau; nơi cư trú: không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá (học vấn): 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn L; và bà: Lâm Thị H; chưa có vợ con; tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt, tạm giam ngày: 01/2/2019 đến ngày 03/2/2019 trả tự do, đến ngày 13/5/2019 bị bắt để tạm giam. (Có mặt)

- Bị hại: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1983; địa chỉ: 54 đường x, khu phố y, phường z, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt)

- Người tham gia tố tụng khác: Người làm chứng: anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1982. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Khoảng 8 giờ ngày 30/01/2019, Trần Văn N đến nhà chị Nguyễn Thị Th tại số 54 đường x, khu phố y, phường z, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, để làm việc bán mùn cưa cho chị Th. Khi đến nhà thấy chị Th lấy xe đi chợ, N đi vào nhà thấy chồng chị Th (anh Nguyễn Văn T) đang trong nhà vệ sinh, N quan sát thấy 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus của chị Th để trên bàn uống nước không có người trông coi, N nảy sinh ý định lấy trộm bán lấy tiền tiêu xài nên lén đi đến lấy điện thoại bỏ vào túi quần bên phải rồi ra ngoài lên xe bỏ trốn. Khi chị Th đi chợ về không thấy N, kiểm tra phát hiện điện thoại di động Iphone 7 Plus của chị Th đã bị mất trộm chị Th và anh T chồng chị Th đi tìm N không gặp. Ngày 01/02/2019 chị Th liên lạc với N qua mạng Zalo gặp N và N thừa nhận đã lấy điện thoại của chị Th và N đồng ý cho chị Th chuộc lại với giá 5.000.000 đồng. Chị Th đến Công an phường Linh Xuân trình báo sự việc. Khoảng 14 giờ ngày 01/02/2019, N đến cầu vượt Linh Xuân dùng điện thoại di dộng Iphone 7 Plus đã trộm của chị Th gọi cho chị Th ra để chuộc điện thoại thì bị Công an phường Linh Xuân bắt giữ.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, N đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên (BL.41.42.43,44).

Kết luận định giá tài sản số 297 ngày 18/02/2019, của Hội đồng định giá tài sản trong tố hình sự quận Thủ Đức, kết luận: Một điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus của chị Th trị giá 10.300.000 đồng.

Vật chứng vụ án:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus đã thu hồi trả lại chủ sở hữu.

Về phần dân sự: Bị hại chị Nguyễn Thị Thúy đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì khác.

 [2] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố.

Bản Cáo trạng số 249/CT-VKSTĐ ngày 29/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố bị cáo Trần Văn N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” và áp dụng khoản 1 của Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, cùng các tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng để xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù, phần dân sự đã giải quyết xong.

Bị cáo N không tranh luận, bào chữa. Bị cáo nói lời sau cùng xin được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Trần Văn N phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, vật chứng và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, có căn cứ xác định bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại Nguyễn Thị Thúy. Tài sản chiếm đoạt là 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus của chị Th trị giá 10.300.000 đồng. Như vậy, có đủ cơ sở pháp lý kết luận bị cáo Trần Văn N đã phạm “Tội trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định, trừng trị tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Vì động cơ vụ lợi, bị cáo đã cố ý xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội thể hiện bị cáo rất liều lĩnh và xem thường pháp luật. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với hình phạt nghiêm, phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa.

[3] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cần xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, nên giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

- Bị hại chị Nguyễn Thị Th đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì. Hội đồng xét xử ghi nhận.

[5] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Trần Văn N phạm “Tội trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo Trần Văn N 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 13/5/2019, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 01/2/2019 đến ngày 03/2/2019.

- Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo Trần Văn N chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo bản án. Riêng bị hại vắng mặt, thời gian kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 235/2019/HS-ST ngày 28/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:235/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về