Bản án 235/2019/HS-ST ngày 10/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 235/2019/HS-ST NGÀY 10/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 6 năm 2019, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 2214/2019/TLST-HS ngày 09 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 258/2019/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 5 năm 2019 đối với:

Bị cáo Nguyễn Thị V, sinh ngày 18/3/1991. Nơi ĐKHKTT: Xóm Y, xã L, huyện Y, tỉnh N; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: Lớp 09/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Con ông: Nguyễn Đình L và con bà: Phan Thị T; Chồng: Trần Văn A (đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2012.Tiền án, tiền sự: Chưa. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/3/2019 đến nay. Có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Đăng T - Luật sư của Văn phòng Luật sư T - Là cộng tác viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh N. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 04/3/2019 Nguyễn Thị V đang ở quán Karaoke H tại địa chỉ xóm 12, xã N, huyện N, tỉnh N thì có 01 nam thanh niên (V không rõ lai lịch, địa chỉ) cho V 02 (hai) viên ma túy tổng hợp để sử dụng, V cầm lấy và cất giấu tại phòng trọ. Đến khoảng 11 giờ 30 phút ngày 14/3/2019, V điều khiển xe máy nhãn hiệu HON DA VISION BKS 37P1-493.96 (chiếc xe đăng ký sở hữu của V) đến khu vực đối diện trước cổng Bệnh viện đa khoa thành phố Vinh thuộc khối T, phường L, thành phố V, tỉnh N để thăm người thân và đưa theo 02 viên ma túy tổng hợp thì bị Tổ công tác công an xã H, thành phố V kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong tay phải của V 01 gói ni lông màu trắng, bên trong chứa 02 viên nén màu vàng xanh, 01 điện thoại Oppo, 01 xe máy HON DA VISION BKS 37P1-493.96. Người cùng tang vật được dẫn giải về trụ sở Công an xã H, thành phố V, tỉnh N lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Quá trình điều tra V khai nhận cất giấu trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng.

Ngày 14/3/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Vinh tiến hành mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và ra quyết định trưng cầu giám định. Tại Kết luận giám định số 479/KL-PC09(MT) ngày 14 tháng 3 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu viên nén màu vàng xanh thu giữ của Nguyễn Thị V gửi tới giám định là ma túy (MDMA). Số viên nén màu vàng xanh thu giữ của Nguyễn Thị V có khối lượng là 0,670 gam.

Cáo trạng số 238/CT-VKS ngày 08/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh truy tố để xét xử Nguyễn Thị V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh phát biểu quan điểm về vụ án, giữ nguyên tội danh đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt Nguyễn Thị V từ 15 (Mười lăm) tháng tù đến 18 (mười tám) tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm khoản 2 điều 106 BLTTHS, điều 47 Bộ luật hình sự tịch thu tiêu huỷ số ma túy đã thu giữ; Trả lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision BKS 37P1-49396 và điện thoại di động hiệu Oppo màu đỏ cho bị cáo. Áp dụng điều 136 BLTTHS, điều 23 Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định buộc bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí HSST.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị V và Luật sư bào chữa cho bị cáo đồng ý với nội dung bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo không tranh luận gì và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt. Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo là thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; bị cáo có ông ngoại có công với cách mạng được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất; hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn thuộc diện hộ nghèo; con bị cáo còn nhỏ để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khoảng 12 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vinh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2]. Về hành vi của bị cáo: Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Thị V thừa nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với Kết luận giám định và lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 11 giờ 30 phút, ngày 14/3/2019, tại khu vực Bệnh viện Đa khoa thành phố V thuộc khối T, phường L, thành phố V, tỉnh N Nguyễn Thị V có hành vi cất giấu trái phép 02 viên nén màu vàng xanh là ma túy (MDMA) có khối lượng 0,670 gam nhằm mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý". Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3]. Xét tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị V phạm vào loại tội nghiêm trọng, hành vi nguy hiểm cho xã hội, vi phạm quy định về quản lý của Nhà nước về ma túy và là một trong những nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm và các tệ nạn xã hội khác. Bị cáo hoàn toàn nhận thức được hành vi cất dấu ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng do thiếu bản lĩnh, không làm chủ được bản thân nên đã đi vào con đường phạm tội. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét tình tiết giảm nhẹ thấy rằng trong quá trình điều tra, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo có ông ngoại có công với cách mạng được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy khi quyết định hình phạt nên xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo như mức đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp và có căn cứ, cần chấp nhận.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Nguyễn Thị V lao động tự do thu nhập không ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn thuộc diện hộ nghèo nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

[5]. Về xử lý vật chứng: Số ma tuý thu giữ của bị cáo V là vật cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu huỷ.

Chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision BKS 37P1-49396 và chiếc điện thoại di động hiệu OPPO màu đỏ của bị cáo do không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

[6]. Đối với người nam thanh niên cho bị cáo ma túy do không xác định được họ tên, lai lịch, địa chỉ cụ thể nên cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị V phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị V 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 14/3/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) phong bì thư niêm phong dán kín, trong chứa ma túy (MDMA), ghi thu giữ vật chứng của Nguyễn Thị V.

Trả lại chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision BKS 37P1-49396 và chiếc điện thoại di động hiệu OPPO màu đỏ cho bị cáo

(Các vật chứng trên hiện có tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vinh theo phiếu nhập kho vật chứng số NK 270 ngày 10/5/2019).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Thị V phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 331, 332, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo Nguyễn Thị V có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 235/2019/HS-ST ngày 10/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:235/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về