Bản án 234/2020/HSST ngày 30/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 234/2020/HSST NGÀY 30/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 245/2020/HSST ngày 11 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

NGUYỄN ĐỨC A, sinh năm 1995 tại Hà Nội; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: thôn Đ, xã Đ, huyện Q, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 07/12; con ông Đặng Hoàng B và con bà Nguyễn Thị M; vợ là An Thị Hồng T và 02 con lớn sinh năm 2017, nhỏ sinh năm 2019; theo danh chỉ bản số 715 ngày 03/09/2020 tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội bị cáo không có tiền sự; tiền án; Nhân thân: Ngày 07/06/2010 bị UBND huyện Thanh Trì xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, thời hạn 12 tháng theo Quyết định số 1584/QĐ-UB. Chấp hành xong ngày 01/11/2011. Tại bản án số 236/2013/HSST ngày 20/11/2013 bị Toà án nhân dân huyện Thanh Trì, Hà Nội xử phạt 36 tháng tù, về tội: “Cố ý gây thương tích”. Chấp hành xong hình phạt ngày 31/8/2015; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/08/2020 đến nay (hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội). Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 40 phút ngày 13/8/2020, Nguyễn Đức A đi xe máy Airblade BKS: 29V5-126.04 từ nơi ở ra khu vực La Dương, phường Dương Nội, quận Hà Đông để tìm mua ma tuý sử dụng. Đến nơi, Đức A gặp một người đàn ông không quen biết trông giống người nghiện và hỏi: “Có ma tuý đá không, để cho em 400.000 đồng”, người đàn ông bảo: “Có, đưa tiền đây”. Nghe vậy, Đức A lấy trong người ra 400.000 đồng đưa cho người đàn ông và được người này đưa lại cho 01 túi nilong kích thước (2x3)cm, miệng túi có viền màu đỏ, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng (ma tuý đá). Mua xong, Đức A cầm túi ma tuý ở tay và đi xe máy để tìm nơi sử dụng. Khoảng 10 giờ cùng ngày, khi Đức A đi đến đoạn Cổng chào tổ dân phố Quyết Tâm, phường Dương Nội, quận Hà Đông thì bị tổ công tác Công an xã La Phù và Đội Cảnh sát điều tra về ma tuý Công an huyện Hoài Đức phối hợp với Công an phường Dương Nội phát hiện bắt quả tang. Vật chứng thu giữ trên tay trái của Đức A 01 túi nilon có đặc điểm trên. Công an xã La Phù, huyện Hoài Đức đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Đức A, niêm phong vật chứng (01 túi nilon); tạm giữ chiếc xe máy Honda Airblade, BKS: 29V5-126.04, số khung: 4608DY52661, số máy: E46E-4053671; 01 giấy chứng minh nhân dân số 111711256; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô; 01 giấy phép lái xe số 0791114 (đều mang tên Nguyễn Văn H, sinh năm 1983, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: xã T, huyện T, Hà Nội) và 01 điện thoại di động Redmi 6A màu đen, sim số 0963948705.

Tại bản kết luận giám định số 7470/KLGĐ-PC09 ngày 22/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận: “Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon màu trắng, miệng túi có viền đỏ là ma tuý loại Methamphetamine, khối lượng 0,467 gam”.

Tại bản cáo trạng số 245/CT-VKS-HĐ ngày 10/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội đã truy tố Nguyễn Đức A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Đức A về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt: Nguyễn Đức A từ 18 tháng tù đến 21 tháng tù.

* Xử lý vật chứng:

+ Trả lại Nguyễn Đức A 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Redmi 6A, vỏ màu đen, số thuê bao 0963.948.705.

+ Tịch thu tiêu huỷ 01 gói niêm phong, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn Hà và bị cáo Nguyễn Đức A (bên trong có ma túy Methamphetamine) không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định truy tố của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Đức A khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, biên bản thu giữ tang vật, bản kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ 10 phút, ngày 13/8/2020, tại khu vực cổng chào thuộc địa phận tổ dân phố Quyết Tâm, phường Dương Nội, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, tổ công tác Công an xã La Phù và đội cánh sát ma túy công an huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội phối hợp với công an phường Dương Nội, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội trong khi làm nhiệm vụ đã phát hiện Nguyễn Đức A có hành vi cất giấu 01 túi nilon màu trắng bên trong có chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,467 gam với mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang người cùng tang vật. Hành vi nêu trên của Nguyễn Đức A đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt đã được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo nguy hiểm cho xã hội bởi Đức A nhận thức rõ ma túy là mặt hàng nhà nước nghiêm cấm tàng trữ nhưng bị cáo vẫn mua về để sử dụng. Hành vi phạm tội của bị cáo không những trực tiếp xâm hại đến chính sách độc quyền về quản lý các chất ma túy mà nó còn góp phần làm gia tăng tệ nạn là nguyên nhân phát sinh ra các loại tội phạm và các bệnh dịch nguy hiểm cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo Nguyễn Đức A không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: sau khi vụ án bị phát hiện bị cáo đã khai nhận thành khẩn toàn bộ hành vi phạm tội của mình với thái độ ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử xét thấy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, để bị cáo yên tâm cải tạo sớm trở thành người tốt, có ích cho xã hội.

[6] Về quyết định hình phạt: Sau khi xem xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiện hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy về nhân thân bị cáo có 01 tiền án và 01 tiền sự đều đã được xóa nhưng điều đó cũng cho thấy mặc dù bị cáo đã được cơ quan pháp luật cải tạo, giáo dục song bị cáo không lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho bản thân, mà ngày càng lao sâu vào con đường phạm tội. Với tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo cần phải có mức hình phạt tù nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi xã hội 1 thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[7] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, lẽ ra phải áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với Nguyễn Đức A. Song do bị cáo không có việc làm ổn định và không có điều kiện về kinh tế nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Đức A.

[8] Về các vấn đề khác:

Đối với đối tượng bán ma túy cho Đức A, do Đức A không biết tên, địa chỉ qua rà soát, xác minh không xác định được căn cước, lý lịch nên không có căn cứ để cơ quan điều tra xác minh làm rõ, nên Hội đồng xét xử không xét.

Đối với chiếc xe máy Honda Airblade, BKS: 29V5-126.04, số khung 4608DY52661, số máy E46E-4053671 thu giữ của Nguyễn Đức A: Kết quả điều tra xác định Đức A mượn của anh Nguyễn Tiến C, sinh năm 1979, trú tại: thôn Y, xã T, huyện T, Hà Nội ở nhà trọ của bố Đức A tại tổ dân phố Q, phường D; anh Cường lại mượn xe của anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1983 ở cùng thôn (là chủ sở hữu); xe có đủ giấy tờ hợp lệ, không nằm trong cơ sở dữ liệu vật chứng. Ngày 13/8/2020, Đức A sử dụng xe vào việc đi mua ma túy anh Cường, anh Hoàn không được biết. Ngày 28/10/2020, Cơ quan CSĐT Công an quận Hà Đông đã ra quyết định xử lý trả xe cùng các giấy tờ liên quan cho anh Hoàn là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử không xét.

[9] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 điện thoại di động Redmi 6A màu đen, sim số 0963948705 thu của Nguyễn Đức A. Quá trình điều tra đã làm rõ được là tài sản của Đức A không liên quan đến vụ án cần tuyên trả lại bị cáo Đức A nhưng được tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án.

- Đối với 01 gói niêm phong, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn Hà và bị cáo Nguyễn Đức A (bên trong có ma túy Methamphetamine). Đây là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nªn tÞch thu tiªu huû.

[10] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí HSST theo quy định của pháp luật.

[11] Về quyền khánh cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Nguyễn Đức A 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/08/2020.

3. Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự 2015 và Điều 106; khoản 2 Điều 136, 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội (quy định về án phí, lệ phí Tòa án).

+ Về xử lý vật chứng:

- Trả lại bị cáo Nguyễn Đức A: 01 (một) điện thoại di động Redmi 6A màu đen, sim số 0963948705, nhưng được tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/11/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hà Nội).

- Tịch thu tiêu huỷ 01 gói niêm phong, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn Hà và bị cáo Nguyễn Đức A (bên trong có ma túy Methamphetamine) theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/11/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hà Đông, Hà Nội.

- Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Đức A phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 234/2020/HSST ngày 30/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:234/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:30/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về