Bản án 233/2021/HS-ST ngày 27/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 233/2021/HS-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2021 tại Hội trường A, Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 289/2021/HSST ngày 30 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 283/2021/QĐXXST-HS ngày 13/9/2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc M, sinh năm 1991 tại Thành phố H; hộ khẩu thường trú: Số 42 P, phường 13, Quận 5, Thành phố H; tạm trú: 122/26 khu phố T 1, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 09/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Ngọc B, sinh năm 1955 và bà Lư Thị Thu C, sinh năm 1961; bị cáo có vợ tên Đinh Nhật T, sinh năm 1985 và có 02 con, lớn sinh năm 2018, nhỏ sinh năm 2021; bị cáo có 02 anh chị ruột, lớn sinh năm 1983, nhỏ sinh năm 1985;

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

Ngày 28/12/2010 bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ xử phạt 07 năm tù về Tội Mua bán trái phép chất ma túy (bản án số 610/2010/HSST), bị cáo kháng cáo. Tại bản án số 83/2011/HSPT ngày 31/3/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Đ giữ nguyên án sơ thẩm. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/9/2016 (đã đóng án phí ngày 23/8/2011).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/6/2021, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

+ Người chứng kiến: Nguyễn Thanh V, sinh năm 1988. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Ngọc M bắt đầu sử dụng ma túy đá từ tháng 4/2021. Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 31/5/2021 do có nhu cầu sử dụng ma túy nên M đã đón xe ôm đi đến khu vực ngã tư G thuộc Quận 12, Thành phố H gặp một người chạy xe ôm (chưa rõ nhân thân lai lịch) mua 500.000 đồng ma túy đá. Sau đó, M đón xe ôm quay về nhà tại địa chỉ 122/26 khu phố T 1, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, M lấy 01 ít ma túy cho vào bộ dụng cụ sử dụng ma túy rồi một mình sử dụng hết, số còn lại M cất vào túi đeo để trên ghế đá, còn bộ dụng cụ sử dụng ma túy thì M để dưới ghế đá ngoài sân trước nhà. Khoảng 08 giờ 45 phút ngày 01/6/2021, Công an phường D kiểm tra hành chính số nhà 122/26 khu phố T 1, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương thì M khai nhận toàn bộ hành vi phạm của mình và chỉ nơi cất giấu ma túy và bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

Vật chứng thu giữ: 01 túi đeo chéo bằng vải jean màu đen; 01 túi nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng; 01 nỏ thủy tinh; 01 ống hút nhựa và 01 vỏ chai nhựa.

Tại Kết luận giám định số 299/MT-PC09 ngày 09/6/2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,4202 gam loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì Kết luận giám định số: 299/MT – PC09 ngày 09/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo Nguyễn Ngọc M, hiện chưa xác định được nhân thân nên Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

Tại cáo trạng số 307/CT-VKS ngày 27 tháng 8 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố D giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc M từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 01 (năm) 09 (chín) tháng tù.

Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 bì thư đã niêm phong bên trong chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng sau giám định 0,2907 gam là chất nhà nước cấm tàng trữ; 01 túi đeo chéo bằng vải jean màu đen sử dụng làm nơi cất giấu ma túy, 01 nỏ thủy tinh; 01 ống hút nhựa và 01 vỏ chai nhựa là vật chứng liên quan đến vụ án nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Trong quá trình điều tra bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Tại đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt bị cáo xin giảm nh hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Quá trình điều tra bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Đối với bị cáo Nguyễn Ngọc M có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị cáo M là đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Về căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 08 giờ 45 phút ngày 01/6/2021, Công an phường D kiểm tra hành chính số nhà 122/26 khu phố T1, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương bắt quả tang Nguyễn Ngọc M đang tàng trữ trái phép 01 túi nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng là ma túy, có khối lượng 0,4202 gam loại Methamphetamine.

[3] Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo Nguyễn Ngọc M tàng trữ ma túy có khối lượng 0,4202 gam ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Theo quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

…..” [4] Do đó, Cáo trạng số 307/CT - VKS ngày 27 tháng 8 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc M về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[5] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nh trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo. Cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng….”. Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, bị cáo đang bị tạm giam nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[7] Tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự: Bị cáo đầu thú; quá trình điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[8] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ xử phạt 07 năm tù về Tội Mua bán trái phép chất ma túy, đã được xóa án tích nay bị cáo lại tiếp tục phạm tội mới về ma túy thể hiện bản thân bị cáo không có ý thức chấp hành pháp luật.

[9] Xử lý vật chứng:

+ Xét 01 (một) bì thư đã niêm phong ghi số: 299/PC09 (bên trong chứa 0,2907 gam ma túy loại Methamphetamine) còn lại sau giám định là là vật cấm lưu thông nên cần tịch thu tiêu hủy.

+ Xét 01 (một) túi đeo chéo bằng vải jean màu đen bị cáo sử dụng làm nơi cất giấu ma túy, cần tịch thu tiêu hủy;

+ Xét 01 (một) nỏ thủy tinh; 01 (một) ống hút nhựa và 01 (một) vỏ chai nhựa bị cáo dùng để sử dụng ma túy, cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Đối với người đàn ông bán ma túy cho M tại khu vực Bến xe A, Quận 12, Thành phố H, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là đúng theo quy định của pháp luật.

[11] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố D về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt, tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và xử lý vật chứng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc M 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 01/6/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư được niêm phong ghi số: 299/PC09 chứa Methamphetamine (ma túy đá) còn lại sau giám định có trọng lượng: 0,2907 gam.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 nỏ thủy tinh, 01 ống hút nhựa và 01 vỏ chai nhựa;

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) túi xách đeo chéo vai bằng vải Jean màu xanh đen.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/8/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố D).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Nguyễn Ngọc M phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Bị cáo vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 233/2021/HS-ST ngày 27/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:233/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về