Bản án 233/2020/HSPT ngày 18/05/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 233/2020/HSPT NGÀY 18/05/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 159/HSPT ngày 06/4/2020 đối với bị cáo Nguyễn Nhật H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2020/HSST ngày 28/02/2020 của Tòa án nhân dân Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Nhật H (tên gọi khác: B); sinh ngày: 19/5/1996; tại: Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: 12/16 Đường A, khu phố 5, phường P, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: 44/6B đường G, khu phố 4, phường L, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn N; và bà: Nguyễn Thị Ngọc O; chưa có vợ con;

Tiền án:

-Ngày 18/6/2013, bị Toà án nhân dân thị xã D, tỉnh Bình Dương xử phạt 08 tháng tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (Bản án số 235/2013/HSST, phạm tội ngày 13/10/2012);

-Ngày 12/9/2013, bị Toà án nhân dân quận Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, tổng hợp hình phạt của hai bản án là 01 năm 3 tháng tù (Bản án số 154/2013/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 23/4/2014);

-Ngày 24/11/2014, bị Tòa án nhân dân Quận M, Thành Phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 6 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (Bản án số 251/2014/HSST);

- Ngày 11/02/2015 bị Toà án nhân dân Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, tổng hợp hình phạt của hai bản án là 04 năm 6 tháng tù (Bản án số 13/2015/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/12/2018);

Tiền sự:

Ngày 04/7/2013, bị Công an phường K, Quận N xử phạt 1.750.000 đồng do mang theo hung khí để đánh nhau;

Nhân thân:

Ngày 19/9/2019, bị Toà án nhân dân Quận X, TPHCM xử phạt 01 năm tù tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (Bản án số 94/2019/HSST); bị Công an Quận X bắt, tạm giam ngày 30/5/2019. (Có mặt).

- Bị hại: Chị Lê Thị Thuý V, sinh năm: 1995, địa chỉ: 26 tổ 1, xã O, huyện A, tỉnh Đồng Nai. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Nhật H và chị Lê Thị Thuý V quen biết nhau từ khoảng tháng 2 năm 2019. Ngày 25/5/2019, Trong lúc Nguyễn Nhật H và chị Lê Thị Thuý V ngồi uống nước cùng nhau tại quán cà phê vỉa hè trên đường G, phường C, Quận N thì chị V hỏi vay của H số tiền 3.000.000 đồng và H đồng ý. H nói không có tiền mặt và phải đi rút tiền. Khoảng 14 giờ 45 phút cùng ngày, chị V đưa chìa khóa xe mô tô Honda Wave Alpha màu trắng biển số 59X3-384.52 cùng giấy tờ xe để trong cốp xe để H điều khiển chở chị V đi tìm trụ ATM để rút tiền. Trên đường đi H mới nảy sinh ý định chiếm đoạt xe mô tô của chị V bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Khi đến trụ ATM trước Bệnh viện Quận N, số 29, đường P, Khu phố 5, phường E, Quận N, H dừng xe mô tô đưa thẻ ATM và nói mật khẩu cho chị V biết để chị V vào rút tiền. Khi chị V xuống xe đi bộ đến cửa trụ ATM thì H liền điều khiển xe mô tô của chị V tẩu thoát về hướng cầu vượt Sóng Thần. Khi đến khu vực bến xe Lam Hồng, phường An Bình, D, Bình Dương, H dừng xe, chuyển hết số tiền trong thẻ ATM của H đã đưa cho chị V sang tài khoản khác, rồi điều khiển xe đến khu vực ngã tư đường Ngô Quyền và Nguyễn Chí Thanh, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh bán cho một người đàn ông (không rõ lai lịch) với giá 4.000.000 đồng, tiêu xài cá nhân hết và trốn tránh sự tìm kiếm của chị V. (BL: 64-68;71-73).

Ngày 27/5/2019, tại trước nhà trọ số 429, đường R, khu phố 2, phường T, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Nhật H thực hiện hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của chị Nguyễn Thị Thu U thì bị phát hiện. Nên ngày 30/5/2019, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định Khởi tố vụ án, ra Quyết định khởi tố bị can và bắt tạm giam đối với Nguyễn Nhật H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Ngày 04/6/2019, chị Lê Thị Thuý V mới đến Công an phường E, Quận N trình báo sự việc. (BL: 81-82).

Quá trình làm việc tại Cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam Công an Quận X thì Nguyễn Nhật H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên. (BL: 57- 62).

Tại bản kết luận Định giá số: 1199 ngày 17/6/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự Quận N kết luận: 01 xe mô tô hiệu Honda Wave Alpha màu trắng, biển số: 59X3-384.52 có giá trị tại thời điểm định giá là 16.000.000 đồng (BL:16) Trách nhiệm dân sự: Người bị hại là chị Lê Thị Thuý V yêu cầu bồi thường giá trị tài sản với số tiền 16.000.000 đồng. (BL-67-68) Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2020/HSST ngày 28 tháng 02 năm 2020 của Tòa án nhân dân Quận N đã áp dụng điểm b, d khoản 2 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 55, khoản 1 Điều 56 của Bộ luật hình sự, xử phạt: bị cáo Nguyễn Nhật H 03 (Ba) năm tù.

Tổng hợp với hình phạt 01 (Một) năm tù tại Bản án số 94/2019/HSST ngày 19/9/2019 của Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Nguyễn Nhật H phải chấp hành hình phạt chung là 04 (Bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/5/2019.

- Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 584, Điều 589 Bộ luật dân sự, Buộc bị cáo Nguyễn Nhật H bồi thường cho bị hại Lê Thị Thuý V 16.000.000 (Mười sáu triệu) đồng.

Ngày 13 tháng 03 năm 2020, bị cáo Nguyễn Nhật H có đơn kháng cáo với nội dung xin được giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo H giữ nguyên nội dung kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau: Với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm, có căn cứ xác định: bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Nhật H là đúng người, đúng tội cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Tại tòa phúc thẩm bị cáo H không đưa ra được thêm tình tiết nào để giảm nhẹ hơn. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử tuyên không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo H giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo H không tranh luận gì thêm với đại diện Viện kiểm sát, nói lời sau cùng xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Khoảng 14 giờ 45 phút ngày 25/5/2019, chị Lê Thị Thúy V có hỏi vay của Nguyễn Nhật H số tiền 3.000.000 đồng và H đồng ý. H nói không có tiền mặt và phải đi rút tiền. Chị V đưa chìa khóa xe mô tô Honda Wave Alpha màu trắng biển số 59X3-384.52 cùng giấy tờ xe để trong cốp xe để H điều khiển chở chị V đi tìm trụ ATM để rút tiền. Trên đường đi H mới nảy sinh ý định chiếm đoạt xe mô tô của chị V bán lấy tiền tiêu xài các nhân. Khi đến trụ ATM trước Bệnh viện Quận N, số 29, đường P, Khu phố 5, phường E, Quận N, H dừng xe mô tô đưa thẻ ATM và nói mật khẩu cho chị V biết để chị V vào rút tiền. Khi chị V xuống xe đi bộ đến cửa trụ ATM thì H liền điều khiển xe mô tô của chị V tẩu thoát về hướng cầu vượt S. Khi đến khu vực bến xe L, phường A, thị xã D, Bình Dương, H dừng xe, chuyển hết số tiền trong thẻ ATM của H đã đưa cho chị V sang tài khoản khác, rồi điều khiển xe đến khu vực ngã tư đường Q và đường V, Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh bán cho một người đàn ông (không rõ lai lịch) với giá 4.000.000 đồng, tiêu xài cá nhân hết và trốn tránh sự tìm kiếm của chị V.

Nhận thấy chị V không giao toàn bộ chiếc xe của chị V cho bị cáo H tự đi một mình để rút tiền. Mà cùng H đi rút tiền, bị cáo H đã dùng thủ đoạn gian dối là giả vờ cho chị V vay tiền bằng cách đưa thẻ ATM và nói mật mã cho chị V biết nhằm mục đích tạo sự tin tưởng lừa gạt để chị V rời xa khỏi tài sản của mình nhằm chiếm đoạt tài sản là chiếc xe gắn máy. Xét thấy, với hành vi trên của bị cáo Nguyễn Nhật H đã cấu thành tội” Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Với hành vi phạm tội như trên của bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo H về tội: “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản “ là đúng người đúng tội và đúng pháp luật. Bị cáo H đã có nhiều tiền án về cùng một loại tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản “ lần phạm tội này là tái phạm nguy hiểm. Bị cáo phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.

Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm b, d khoản 2 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 55, khoản 1 Điều 56 của Bộ luật hình sự, xử phạt: bị cáo Nguyễn Nhật H 03 (Ba) năm tù.

Tổng hợp với hình phạt 01 (Một) năm tù tại Bản án số 94/2019/HSST ngày 19/9/2019 của Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Nguyễn Nhật H phải chấp hành hình phạt chung là 04 (Bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/5/2019.

Là có căn cứ, đúng pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ mức hình phạt. Đơn kháng cáo làm trong thời hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm. Xét, mức hình phạt tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội do bị cáo gây ra. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo H không đưa ra được thêm tình tiết nào để giảm nhẹ hơn. Do vậy chấp nhận đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo H giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp và đúng pháp luật.

Về án phí:

- Bị cáo H phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 .

Các nội dung khác của Bản án hình sự sơ thẩm do không bị kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm a Khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự, Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Nhật H, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2020/HSST ngày 28 tháng 02 năm 2020 của Tòa án nhân dân Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh.

Căn cứ vào điểm b, d khoản 2 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 55, khoản 1 Điều 56 của Bộ luật hình sự xử phạt: bị cáo Nguyễn Nhật H 03 (Ba) năm tù. Về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tổng hợp với hình phạt 01 (Một) năm tù tại Bản án số 94/2019/HSST ngày 19/9/2019 của Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Nguyễn Nhật H phải chấp hành hình phạt chung là 04 (Bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/5/2019.

Bị cáo Nguyễn Nhật H phải nộp án phí hình sự phúc thẩm 200.000đ (Hai trăm ngàn) đồng.

Các nội dung khác của Bản án hình sự sơ thẩm do không bị kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 233/2020/HSPT ngày 18/05/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:233/2020/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về