Bản án 233/2019/HSST ngày 26/12/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, TP HÀ NỘI

BẢN ÁN 233/2019/HSST NGÀY 26/12/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hà Đông, T phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 232/2019/HSST, ngày 29 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 225/2019/QĐXXST - HS ngày 13/12/2019, đối với các bị cáo:

1. KIỀU KIẾM H - SN 1991; HKTT: Khu L, xã M, huyện Y, tỉnh P; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo, đảng phái: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 11/12; Con ông Kiều Văn H (đã chết) và bà Cao Thị T, SN 1966; Vợ là Nguyễn Hồng T, SN 1995; Có 3 con lớn SN 2013, nhỏ SN 2017;

Tiền án, tiền sự: chưa

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/9/2019 đến nay tại Trại tạm giam số 2- Công an T phố Hà Nội.

2. ĐINH CÔNG H - SN 1995; HKTT: Khu T, xã M, huyện Y, tỉnh P; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo, đảng phái: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông Đinh Công c, SN 1971 và bà Đỗ Thị Đ, SN 1973; Gia đình có 2 anh em, bị cáo là lớn nhất; Vợ con: Chưa có;

Tiền án, tiền sự: chưa

Bị bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/9/2019 đến nay tại Trại tạm giam số 2- Công an T phố Hà Nội.

3. ĐẶNG TIẾN T - SN 1995; HKTT: Khu T, xã M, huyện Y, tỉnh P; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo, đảng phái: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông Đặng Tiến D, SN 1971 và bà Sa Thị Q, SN 1972; Vợ là cô Thu T, SN 1997; Có 2 con lớn SN 2017, nhỏ SN 2019;

Tiền án, tiền sự: chưa.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/9/2019 đến nay tại Trại tạm giam số 2- Công an T phố Hà Nội.

4. ĐINH VIẾT H - SN 1992; HKTT: Khu L, xã M, huyện Y, tỉnh P; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo, đảng phái: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông Đinh Viết X, SN 1962 và bà Trần Thị H, SN 1965; Vợ là Đinh Thị T, SN 1991 (đã ly hôn); Có 01 con SN 2012 (đã chết);

Tiền án, tiền sự: chưa.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/9/2019 đến nay tại Trại tạm giam số 2- Công an T phố Hà Nội.

(Các bị cáo đều có mặt tại phiên tòa)

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: anh Trần Văn Chung - SN 1984 Trú tại: xã Giao Lạc, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Các bị cáo Kiều Kiếm H, Đinh Công" H, Đặng Tiến T, Đinh Viết H bị Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Đinh Công H, Kiều Kiếm H, Đặng Tiến T và Đinh Viết H đều ở xã Mỹ Lương, huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ, đến Hà Nội làm ăn (phục vụ ở các quán karaoke), cùng thuê trọ tại N°02-LK88, khu đất dịch vụ LK 27, 28, phường Dương Nội, quận Hà Đông, T phố Hà Nội.

Khoảng 08 giờ ngày 09/9/2019, khi đang ở phòng trọ, H sử dụng điện thoại (4 người dùng chung nhãn hiệu Vetur màu vàng, số thuê bao 0332644144) gọi cho đối tượng tên “T” (chưa rõ lai lịch) theo số điện thoại có đuôi 584 để hỏi mua ma túy đá để cùng mọi người sử dụng và bán kiếm lời. Qua điện thoại, H nói với T: “Anh có ma túy đá bán không để cho em 5.000.000 đồng”, T bảo “có” và hẹn xuống khu vực cống bệnh viện quân y 103 - Hà Đông để lấy hàng. Trao đổi xong, H bảo H: “Em xuống khu vực cống bệnh viện 103 lấy ma túy về cho anh”, đồng thời H lấy 5.000.000 đồng đưa cho H và cho số điện thoại của đối tượng “T” để H chủ động liên lạc mua ma túy. Sau H đi xe ôm đến địa điểm trên để gặp T. Trên đường đi, H sử dụng điện thoại dùng chung số 0332644144 gọi đến số điện thoại có đuôi 584 thì thấy giọng một người nam giới, người này nói với H là cứ đứng ở trước cống bệnh viện 103 chờ để lấy hàng. Đến nơi, H tiếp tục gọi điện cho người trên thì thấy một người nam giới đi đến chỗ H đưa cho H 01 túi bên ngoài bọc nilông màu xanh, H cầm túi này và đưa cho người nam giới 5.000.000 đồng. Tiếp đó, H hỏi người này: “Anh còn hàng không, bán cho em thêm 01 túi 5.000.000 đồng”, người nam giới bảo: “Có, đưa tiền đây”. Nghe vậy, H lấy trong người ra 5.000.000 đồng đưa cho người nam giới và được người này đưa lại cho 01 túi ma túy đá bên ngoài bọc bằng nilon màu xanh. H cầm 02 túi ma túy cất trong túi quần đang mặc và đi xe ôm về. Đến khu vực cống làng Vạn Phúc, phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, H bán 01 túi ma túy đá (túi mua riêng) cho một phụ nữ không quen biết giá 6.500.000 đồng. Còn lại 01 túi H đem về phòng trọ cất trong một hộp sắt để trên bàn ở phòng ngủ và thông báo cho H biết đã mua được ma túy. Số tiền 6.500.000 đồng bán riêng ma túy của H, H đã chi tiêu cá nhân hết.

Đến khoảng 18 giờ cùng ngày 09/9/2019, H lại gọi điện cho đối tượng “T” để hỏi mua 50 viên ma túy hồng phiến. Sau bảo H lấy tiền ở hộp sắt để đi xuống khu vực cống bệnh viện 103 gặp T mua 50 viên ma túy hồng phiến. H đồng ý và lấy số tiền 2.500.000 đồng ở hộp sắt trong phòng ngủ rồi đi xe ôm xuống khu vực cống bệnh viện 103 để mua ma túy. Đến nơi, H sử dụng điện thoại dùng chung số 0332644144 gọi vào số điện thoại đuôi 584 (số máy của người bán ma túy lúc sáng), sau gặp rồi đưa cho người này 2.500.000 đồng và người này đưa lại cho H01 gói bên ngoài bọc nilon màu xanh, bên trong có 50 viên nén hình tròn màu hồng. H cầm cất vào túi quần rồi đi xe ôm đem về phòng trọ để trong hộp sắt ở phòng ngủ. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày H, H, T, H lấy một ít ma túy đá và 08 viên hồng phiến ra cùng sử dụng, trong khi sử dụng H nói với H, T và H: Nếu ai có khách hỏi mua ma túy thì lấy trong hộp sắt mang đi bán mang tiền về để trong hộp sắt, lời lãi bao nhiêu thì chi tiêu chung, còn sẽ chia đều cho 4 người, tất cả đã đồng ý.

Khoảng 21 giờ ngày 10/9/2019, cả 4 người đang ở phòng trọ thì H bảo H đi xuống khu vực cống bệnh viện 103 gặp đối tượng bán ma túy tên “T” mua 05 viên “kẹo” (ma túy thuốc lắc) về bán cho khách. Khi đó, Đặng Tiến T nghe thấy H nói với H mua 05 viên kẹo, thì T bảo với H: “Em cũng có khách hỏi mua 05 viện kẹo”. Sau H đưa 2.500.000 đồng cho H và bảo H đi mua 10 viên kẹo. Khi đi, H và T cùng đi taxi đến cổng bệnh viện 103 để mua ma túy. Đến nơi, T ngồi trên xe taxi đợi, còn H xuống xe đi bộ một đoạn vào trong ngõ để gặp đối tượng tên “T” bán ma túy vài lần trước đó. Khi gặp, H lấy trong người ra 2.500.000 đồng đưa cho đối tượng T, nói: “Bán cho em 10 viên ma túy thuốc lắc”, người này cầm tiền và đưa lại cho H01 túi nilon bên trong có 10 viên nén hình chữ nhật màu xám. H cầm cất trong túi quần đang mặc rồi đi ra chỗ xe taxi chờ và cùng T tiếp tục đi. Đến khu vực phố An H, phường Mộ Lao, quận Hà Đông, T lấy 05 viên thuốc lắc ra bán cho 01 khách không quen biết với giá 1.800.000 đồng. Sau cầm tiền về để trong hộp sắt cùng với 05 viên ma túy thuốc lắc còn lại và thông báo cho H biết.

Sau khi có được số ma túy nêu trên, các đối tượng H, H,T, H đã thực hiện việc bán ma túy kiếm lời như sau:

Lần thứ nhất: Khoảng 19 ngày 09/9/2019, H đang ở phòng trọ thì có một khách nam giới không quen biết gọi vào số máy chung 0332644144 hỏi mua 01 túi ma túy đá 300.000 đồng. H đồng ý và hẹn khách ra khu vực ngã tư La Dương, phường Dương Nội, quận Hà Đông để giao hàng. Ngay sau đó, H bảo T vào trong hộp sắt san một ít ma túy cho vào túi nilon để đem bán cho khách. T vào san một ít ma túy đá cho vào túi nilon màu trắng đem ra đưa cho H và H đi xe máy BKS: 29L1-590.29 ra chỗ hẹn bán cho người khách thu số tiền 300.000 đồng đem về cất trong hộp sắt.

Lần thứ hai: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 09/9/2019, H đang ở phòng trọ thì có một khách nam giới không quen biết gọi vào số máy chung 0332644144 hỏi mua 01 túi ma túy đá 300.000 đồng. H đồng ý và hẹn khách ra đầu quán vịt gần khu trọ của H để giao hàng. Sau H vào phòng ngủ lấy một ít ma túy ở hộp sắt cho vào túi nilon đem ra bảo H cầm mang bán cho khách đang đợi ở gần quán vịt đầu ngõ giá 300.000 đồng. Ngay sau đó, H đem 01 túi ma túy đưa cho khách và đem về 300.000 đồng đưa cho H.

Lần thứ ba: Khoảng 20 giờ ngày 09/9/2019, khi H, H, H và T đang ở phòng trọ thì H nhận được điện thoại của một người nam giới không quen biết gọi vào số máy chung 0332644144 hỏi mua 01 túi ma túy đá 300.000 đồng. H đồng ý và hẹn ra ngã tư La Cả, phường Dương Nội, quận Hà Đông để nhận hàng. Ngay sau đó, H vào trong phòng ngủ lấy một ít ma túy đá trong hộp sắt cho vào túi nilon màu trắng đem ra bảo H mang bán cho khách ở địa điểm hẹn. Nhưng H đang bị đau mắt nên bảo H hẹn khách ra chỗ đầu đường gần quán vịt, H đồng ý và gọi điện lại cho khách. Sau H cầm 01 túi ma túy đá đem ra đưa cho một người nam giới không quen biết, nhận số tiền 300.000 đồng về đưa cho H và H cất tiền vào trong hộp sắt ở phòng ngủ.

Lần thứ tư: Khoảng 01 giờ ngày 10/9/2019, H đang ở phòng trọ thì có một khách nam giới không quen biết gọi vào số máy chung 0332644144 hỏi mua 01 túi ma túy đá 300.000 đồng. H đồng ý và hẹn khách ra khu vực chợ M1 gần chùa Tổng, huyện Hoài Đức, T phố Hà Nội để nhận hàng. Sau đó, H bảo T vào hộp sắt san một ít ma túy đá cho vào túi nilon đem bán cho khách. San xong, T cầm ra đưa cho H và H đi xe máy BKS: 29L 1-590.29 ra khu vực chợ M1 để bán và nhận số tiền 300.000 đồng đem về để trong hộp sắt.

Lần thứ năm: Khoảng 19 giờ ngày 10/9/2019, H đang ở phòng trọ thì có một khách nam giới không quen biết gọi vào số máy chung 0332644144 hỏi mua 10 viên ma túy hồng phiến. H nghe máy, thỏa thuận giá bán 70.000 đồng/1 viên và hẹn khách ra khu vực La Cả, phường Dương Nội, quận Hà Đông để giao dịch. Sau H vào phòng ngủ lấy ở hộp sắt 10 viên hồng phiến và đi xe máy BKS: 29L1-590.29 đem bán cho khách, thu số tiền 700.000 đồng về để trong hộp sắt.

Lần thứ sáu: Khoảng 12 giờ ngày 12/9/2019 H, H, H và T đang ở phòng trọ, thì H nhận được điện thoại số thuê bao 0327257811 của một khách nam giới không quen biết hỏi mua 02 túi ma túy đá, mỗi túi 300.000 đồng. H đồng ý bán và hẹn khách ra khu vực gần cống nhà máy SYM đường Lê Trọng Tấn, phường La Khê, quận Hà Đông để giao dịch. Sau H bảo T vào hộp sắt san 02 túi ma túy đá mỗi túi 300.000 đồng để bán cho khách. San xong, T đem 02 túi nilon ma túy đá ra để ở mặt bàn, rồi H cầm 02 túi ma túy này cất trong túi quần đang mặc và đi xe máy BKS: 29L1- 590.29 ra khu vực cống nhà máy SYM đường Lê Trọng Tấn, tổ 4, phường La Khê, quận Hà Đông để bán. Khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, chưa giao được ma túy thì bị tố công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Hà Đông phối hợp với Công an phường Dương Nội kiểm tra, phát hiện bắt quả tang. Vật chứng thu giữ tại túi quần sau bên trái H đang mặc 02 túi nilon KT: (lxl,5)cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng (niêm phong ký hiệu Ml); ngoài ra còn thu giữ 02 điện thoại di động (01 điện thoại Iphone màu ghi, số thuê bao 0986037594; 01 điện thoại Vetur màu vàng, số thuê bao 0332644144) và 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh, BKS: 29L1- 590.29, số khung 5P710AY022264, số máy 5P71022262. Công an quận Hà Đông lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đinh Công H và đưa toàn bộ vật chứng về trụ sở để điều tra xử lý.

Đến 13 giờ cùng ngày 12/9/2019 không thấy Đinh Công H về, Kiều Kiếm H, Đặng Tiến T và Đinh Viết H đi tìm, sau biết H bị công an bắt thì cả ba đã đến Công an quận Hà Đông đầu thú. Khi đầu thú, H đã giao nộp 01 điện thoại Samsung màu đen số thuê bao 0972726321; T giao nộp 01 điện thoại Oppo màu xanh số thuê bao 0973008973 và H giao nộp 01 điện thoại Oppo màu đỏ số thuê bao 0379009802.

Ngày 12/9/2019, Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của 04 đối tượng trên tại địa chỉ: N°02-LK88, khu đất dịch vụ LK 27, 28, phường Dương Nội, quận Hà Đông. Kết quả phát hiện thu giữ tại mặt bàn ở phòng ngủ 01 hộp vỏ bằng kim loại KT (20x15x15)cm, bên trong có:

+ 01 túi nilon KT (10x5)cm, bên trong có 05 viên nén hình chữ nhật màu ghi (ký hiệu M2);

+ 01 túi nilon màu xanh KT (5x10)cm, bên trong có 32 viên nén hình tròn màu hồng (ký hiệu M3);

+ 01 túi nilon KT (10xl5)cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M4);

+ 01 cân điện tử vỏ màu đen KT (10x5x5)cm;

+ 100.000 đồng tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam đang lưu hành.

Ngày 12/9/2019, Cơ quan điều tra quyết định trung cầu giám định các mẫu vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Đinh Công H và khám xét khẩn cấp chỗ ở của các đối tượng. Tại bản kết luận giám định số 5879/KLGĐ-PC09 ngày 19/9/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an T phố Hà Nội, kết luận:

- Tinh thể màu trắng bên trong 02 túi nilon (ký hiệu Ml) đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng: 0,291 gam;

- 05 viên nén màu xám bên trong 01 túi nilon (ký hiệu M2) đều là ma túy loại MDMA, tổng khối lượng: 2,521 gam;

- 32 viên nén màu hồng bên trong 01 túi nilon (ký hiệu M3) đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng: 3,167 gam;

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon (ký hiệu M4) là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng: 4,852 gam.

- 01 cân điện tử màu đen có dính ma túy loại Methamphetamine.

Bản cáo trạng số 234/CT - VKS - HS ngày 28/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông truy tố Đinh Công H, Kiều Kiếm H, Đặng Tiến T, Đinh Viết H về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị áp dụng điểm b, i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt:

Kiều Kiếm H từ 09 năm đến 09 năm 06 tháng tù.

Đinh Công H từ 08 năm 06 tháng đến 09 năm tù.

Đặng Tiến T từ 08 năm đến 08 năm 06 tháng tù Đinh Viết H từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù.

Về hình phạt bổ sung: Phạt mỗi bị cáo từ 05 đến 07 triệu đồng

Tịch thu 05 điện thoại di động, phát mại sung ngân sách nhà nước

Vật chứng là ma túy tịch thu tiêu hủy.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Tại cơ quan điều tra cũng như trước phiên tòa, các bị cáo Kiều Kiếm H, Đinh Công H, Đặng Tiến T, Đinh Viết H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung trên.

Xét thấy, lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, biên bản thu giữ tang vật, bản kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Do đó, có đủ cơ sở kết luận: Do hám lợi và nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân, Kiều Kiếm H, Đinh Công H, Đặng Tiến T và Đinh Viết H đã thống nhất mua ma túy đem về phòng trọ của mình tại địa chỉ: N°02-LK88, khu đất dịch vụ LK 27, 28, phường Dương Nội, quận Hà Đông, Hà Nội để sử dụng và bán kiếm lời. Sau khi mua được nguồn ma túy mua từ đối tượng tên “T” (không rõ lai lịch) tại khu vực cổng bệnh viện quân y 103, địa phận phường Phúc La, quận Hà Đông, T phố Hà Nội. Trong khoảng thời gian từ ngày 09/9/2019 đến ngày 12/9/2019; Kiều Kiếm H thực hiện bán 01 lần, mua 03 lần; Đinh Công H mua 03 lần, bán 05 lần; Đặng Tiến T mua 01 lần, bán 03 lần và Đinh Viết H bán 02 lần. Tổng số tiền các bị cáo bỏ ra mua ma túy là 10.000.000 đồng, đã bán thu được 3.700.000 đồng tiền lãi. Lãi thu được sử dụng chi tiêu sinh hoạt chung cho cả 4 người, còn lại chia đều cho nhau, cụ thể các lần bán như sau:

- Ngày 09/9/2019, Đinh Công H và Đinh Viết H đã trực tiếp đem ma túy bán cho khách 03 lần/3 túi Methamphetamine, thu số tiền 900.000 đồng;

- Ngày 10/9/2019, Đinh Công H và Đặng Tiến T trực tiếp đem ma túy bán cho khách 02 lần (01 túi đá và 10 viên hồng phiến, đều là ma túy Methamphetamine), thu số tiền 1.000.000 đồng;

- Ngày 12/9/2019, Đinh Công H trực tiếp đem ma túy bán cho khách 01 lần/02 túi ma túy Methamphetamine, chưa giao được thì bị công an bắt quả tang.

Ngoài ra, trong quá trình đi mua ma túy đêm ngày 10/9/2019 Đinh Công H và Đặng Tiến T còn bán cho 01 khách ở khu An H, phường Mộ Lao, quận Hà Đông 05 viên thuốc lắc (ma túy MDMA), thu 1.800.000 đồng.

Tống khối lượng ma túy 04 bị cáo thực hiện việc mua bán chung bị thu giữ khi bắt quả tang và khám xét chỗ ở là: 8,310 gam Methamphetamine và 2,521 gam MDMA.

Ngày 09/9/2019 Đinh Công H còn tự mua riêng 01 túi ma túy Methamphetamine, sau đó bán cho 01 phụ nữ không quen biết, thu lời 1.500.000 đồng.

Hành vi trên của các bị cáo Kiều Kiếm H, Đinh Công H, Đặng Tiến T và Đinh Viết H là phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông truy tố bị cáo với tội danh trên theo điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an an toàn xã hội. Bản thân các bị cáo tuổi còn rất trẻ, song không chịu lao động rèn luyện, làm ăn chân chính, sớm đi vào con đường phạm tội. Vì vậy, cần phải có hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian dài nhằm giáo dục cải tạo bị cáo trở T người hữu ích và đáp ứng đấu tranh phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét: tại cơ quan điều tra cũng như trước phiên tòa, các bị cáo T khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhân thân chưa có tiền án tiền sự và đều là người dân tộc thiểu số. Các bị cáo Kiều Kiếm H, Đặng Tiến T, Đinh Viết H ra đầu thú, nên được xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

Xét vai trò của từng bị cáo trong vụ án thấy: vụ án có tính chất đồng phạm, Kiều Kiếm H là người khởi xướng, bỏ tiền ra và đứng ra giao dịch việc mua bán, giữ vai trò chính, chịu mức án cao nhất. Đinh Công H, Đặng Tiến T là người trực tiếp mua bán ma túy theo chỉ đạo của H, là người thực hiện tích cực. Đinh Công H tham gia mua bán nhiều hơn T, nên mức án của Đinh Công H thấp hơn Kiều Kiếm H, nhưng cao hơn Đặng Tiến T. Cuối cùng là Đinh Viết H là đồng phạm với vai trò giúp sức, nên mức án thấp nhất.

Về hình phạt bổ sung: các bị cáo không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với các bị cáo.

Xử lý vật chứng: Vật chứng là ma túy được hoàn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.

Tịch thu tiêu hủy: 01 cân điện tử, 01 hộp sắt

Tịch thu sung ngân sách nhà nước 100.000 đồng.

05 chiếc điện thoại di động thu giữ của các bị cáo, đều liên quan đến vụ án, cần tịch thu phát mại sung ngân sách nhà nước.

Về trách nhiệm dân sự: số tiền 3.700.000 đồng các bị cáo có được do bán ma túy, nay buộc các bị cáo phải nộp lại. Do các bị cáo được ăn chia đều nên mỗi bị cáo phải nộp 925.000 đồng. Đinh Công H còn phải nộp 1.500.000 đồng tiền lãi do bán riêng 01 túi ma túy Methamphetamine.

Về nguồn gốc ma túy: Kiều Kiếm H, Đinh Công H và Đặng Tiến T khai nhận mua từ một đối tượng tên “T” tại khu cống bệnh viện quân y 103 thuộc phường Phúc La, quận Hà Đông. Các bị cáo chỉ biết tên T có đuôi số điện thoại liên lạc là 584, ngoài ra không biết thêm gì khác. Cơ quan điều tra tiến hành rút lít điện thoại số thuê bao 0332644144 do H và H sử dụng liên lạc với T để mua ma túy, không có số điện thoại nào có đuôi 584. Tiến hành cho H và H kiểm tra, xác nhận trực tiếp từ lịch sử các cuộc gọi đi, gọi đến ở máy điện thoại này, thì H và H không xác định được số điện thoại nào là của T. Xác minh tại nơi giao dịch mua bán ma túy, công an khu vực xác định không có đối tượng nào tên “T” có đặc điểm như các bị cáo khai, nên không có cơ sở để làm rõ xử lý trong vụ án.

Những đối tượng mua ma túy của các bị cáo, các bị cáo đều không biết rõ là ai, ở đâu. Qua kiểm tra lịch sử tin nhắn ở máy điện thoại của T và H có một số thông tin liên quan đến giao dịch mua bán ma túy. Song kết quả rút list các số điện thoại có thông tin này, thì các chủ thuê bao như: anh Phan Văn Phương, Chu Văn Chung, Bùi Minh Thương...xác định không còn sử dụng số điện thoại này, nên không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

Chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh BKS: 29L 1-590.29, số khung 5P710AY022264, số máy 5P71022262 thu giữ của Đinh Công H: Quá trình điều tra xác định đăng ký mang tên anh Đỗ Ngọc H, SN 1980; Trú tại: tổ dân phố 3, Miêu Nha, Tây Mỗ, Nam Từ Liêm. Năm 2018, anh H đã bán lại cho anh Trần Văn Chung, SN 1984 ở xã Giao Lạc, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định (bạn của Đặng Tiến T). Khoảng tháng 9/2019 T đã mượn xe của anh Chung để đi lại, việc T sử dụng xe vào việc phạm tội, anh Chung không biết, xe có đủ giấy tờ hợp lệ. Ngày 21/11/2019, cơ quan điều tra đã trả xe cho anh Chung là có căn cứ, đúng pháp luật.

Về hành vi quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận thấy: quá trình điều tra, truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo phải nộp án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b, i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106; Điều 135, 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Toà án và danh mục mức án phí lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016.

1. Tuyên bố các bị cáo Kiều Kiếm H, Đinh Công H, Đặng Tiến T, Đinh Viết H phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy

Xử phạt:

- Kiều Kiếm H 09 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/9/2019

- Đinh Công H 08 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/9/2019

- Đặng Tiến T 08 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/9/2019

- Đinh Viết H 07 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/9/2019

2. Tịch thu tiêu hủy:

- 01 hộp sắt

- 01 phong bì niêm phong tại các mép dán có chữ ký của đối tượng Đinh Công H, cán bộ công an Trần Hồng Quân và giám định viên Vũ Việt Cường (Ký hiệuMl)

- 04 phong bì niêm phong tại các mép dán có chữ ký của đối tượng Kiều Kiếm H, Đinh Viết H, Đặng Tiến T, cán bộ Công an Trần Hồng Quân và giám định viên Vũ Việt Cường (Ký hiệu M2, M3, M4, M5)

3. Tịch thu phát mại sung ngân sách nhà nước:

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu ghi, số thuê bao 0986037594

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vetur vỏ màu vàng, số thuê bao 0332644144

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung vỏ màu đen, số thuê bao 0972726321

- 01 điện thoại di động nhã hiệu Oppo vỏ màu xanh đến, số thuê bao 0973008937

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đỏ, số thuê bao 0379009802.

(Tình trạng như biên bản bàn giao ngày 12 tháng 12 năm 2019 giữa Công an quận và Chi cục thi hành án dân sự quận Hà Đông).

Tịch thu 100.000 đồng sung ngân sách nhà nước (Đã chuyển vào tài khoản 3949.0.1052739 của chi cục thi hành án dân sự quận Hà Đông, tại kho bạc nhà nước Hà Đông ngày 23/12/2019).

Buộc các bị cáo Kiều Kiếm H, Đặng Tiến T, Đinh Viết H mỗi bị cáo phải nộp 925.000 đồng sung ngân sách nhà nước. Đinh Công H phải nộp 2.425.000 đồng sung ngân sách nhà nước.

4. Bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 233/2019/HSST ngày 26/12/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:233/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về