TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 233/2018/HNGĐ-ST NGÀY 08/11/2018 VỀ XIN LY HÔN
Ngày 08 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 746/2018/TLST- HNGĐ ngày 23/8/2018, về việc xin ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 718/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 15/10/2018, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Trần Hoàng Đ, sinh năm 1977 (có mặt)
Địa chỉ: Đường Nguyễn Đình Chiểu, phường 8, thành phố C, tỉnh Cà Mau
Bị đơn: Chị Nguyễn Cẩm N, sinh năm 1981 (có mặt)
Địa chỉ: Số 62/22A, Lý Thường Kiệt, khóm 1, phường 7, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Chị Nguyễn Cẩm T, sinh năm 1983 (vắng mặt)
Địa chỉ: Khóm 3, phường Láng Tròn, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu.
Bà Võ Thị Bé B, sinh năm 1952 (có mặt)
Ông Trần Văn A, sinh năm 1947 (có mặt)
Địa chỉ: Đường Phan Bội Châu, khóm 3, phường 7, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
Anh Nguyễn Tấn K, sinh năm 1975
Địa chỉ: Số 62/28, Lý Thường Kiệt, khóm 1, phường 7, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
Chị Trần Thị Mai C
Địa chỉ: Số 12,đường số 02, khóm 3, phường 7, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
Chị Trần Thị Mai D
Địa chỉ: Đường Nguyễn Đình Chiểu, phường 8, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Anh Trần Hoàng Đ trình bày: Anh Đ và chị Nguyễn Cẩm N kết hôn khoảng 16 năm, đến năm 2016 thì đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường 7, thành phố C. Trong quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn, thường hay cãi vã nhau do chị N thường xuyên cờ bạc dẫn đến bể nợ nên anh và chị N đã không sống chung nhà ba năm nay. Nay nhận thấy tình cảm không còn nên anh Đ yêu cầu tòa án giải quyết cho anh ly hôn với chị N.
Về con chung: Có hai người con chung tên Trần Thùy L, sinh ngày 28/10/2005 và Trần Hoàng H, sinh ngày 11/9/2015. Sau ly hôn anh Đ yêu cầu được nuôi cả hai con chung, không yêu cầu cấp dưỡng. Nếu chị N nuôi con thì anh đồng ý giao con cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng và anh cấp dưỡng nuôi hai con 2.000.000 đồng/tháng.
Về tài sản chung: Không có.
Về nợ chung: Không có.
* Chị Nguyễn Cẩm N trình bày:
Về hôn nhân: Về thời gian chung sống, thời gian kết hôn, nơi đăng ký kết hôn đúng như anh Đ trình bày. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, thường hay cự cãi do anh Đ có người phụ nữ khác bên ngoài nên chị và anh Đ sống ly thân đã lâu. Nay anh Đ xin ly hôn chị N không đồng ý vì lý do muốn hàn gắn với anh Đ để cùng nuôi dạy con chung.
Về con chung: Có hai người con chung tên Trần Thùy L, sinh ngày 28/10/2005 và Trần Hoàng H, sinh ngày 11/9/2015. Nếu anh Đ cương quyết ly hôn chị N yêu cầu được nuôi cả hai con chung, yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi hai con 6.000.000 đồng/tháng.
Về tài sản chung: Có 01 căn nhà địa chỉ số 62/22A, Lý Thường Kệt, khóm 1, phường 7, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. Nhà trị giá 600.000.000 đồng xây dựng trên phần đất của mẹ chồng là bà Võ Thị Bé B cho nhưng chưa chuyển tên. Nếu Tòa giải quyết cho anh Đại ly hôn với chị thì chị yêu cầu chia đôi giá trị căn nhà trên, chị yêu cầu nhận 300.000.000 đồng và giao nhà cho anh Đ.
Đối với văn bản của Tòa án yêu cầu chị dự nộp án phí, chị N xác định chị không dự nộp vì hoàn cảnh khó khăn không có tiền dự nộp.
Về nợ chung: Nợ Nguyễn Cẩm T ở Giá Rai số tiền 60.000.000 đồng. Nợ anh K số tiền 30.000.000 đồng. Nợ chị chồng tên C 10.000.000 đồng. Chị N yêu cầu anh Đ có trách nhiệm trả toàn bộ số nợ trên.
Tại phiên tòa chị N xác định nợ do chị tự vay để lo cho con nếu anh Đ không đồng ý trả thì chị sẽ tự trả một mình.
* Chị Nguyễn Cẩm T trình bày: Năm 2017 chị T có cho chị N mượn số tiền 60.000.000 đồng để trị bệnh cho con của anh Đ chị N. Nếu anh Đ và chị N đồng ý thanh toán thì chị T nhận nếu không đồng ý thanh toán thì chị không yêu cầu. Chị xác định chị không yêu cầu độc lập trong vụ án này.
* Bà Võ Thị Bé B và ông Trần Văn A trình bày: Căn nhà và đất tọa lạc địa chỉ số 62/22A, Lý Thường Kệt, khóm 1, phường 7, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau là của ông bà. Đến năm 2016 thì giải tỏa nên Đ và N đứng ra cất lại nhà, khi cất nhà thì Trần Thị Mai C (là con gái ông bà) đưa cho Đ mượn số tiền 250.000.000 đồng để xây cất nhà để cả nhà ở chung. Nay chị N yêu cầu chia căn nhà trên thì bà B không đồng ý. Bà chỉ đồng ý cho chị N cùng các cháu ở lại nhà trên để nuôi cháu.
* Tại bản tự khai chị Trần Thị Mai C trình bày: Sau khi xây dựng lại căn nhà trên đất tọa lạc địa chỉ số 62/22A, Lý Thường Kiệt, khóm 1, phường 7, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau thì chị có cho anh Đ mượn số tiền 250.000.000 đồng để xây cất nhà. Nay chị N và anh Đ ly hôn thì chị không yêu cầu anh Đ chị N thanh toán số tiền trên.
* Chị Trần Thị Mai D trình bày: Năm 2016 chị có cho chị N mượn số tiền 30.500.000 đồng để mua vàng, chị N đã trả cho chị được 20.500.000 đồng. Còn lại 10.000.000 đồng. Nếu anh Đ và chị N ly hôn thì giữa chị và anh Đ chị N tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết trong vụ án này.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về phần hôn nhân: Anh Trần Hoàng Đ và chị Nguyễn Cẩm N chung sống với nhau năm 2002, đến năm 2016 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường 7, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau đúng theo quy định của pháp luật nên hôn nhân của anh, chị là hợp pháp và được pháp luật công nhận anh chị là vợ chồng.
Do có phát sinh mâu thuẫn vì anh Đ cho rằng chị N thường xuyên cờ bạc dẫn đến bể nợ nhiều lần, anh đã khuyên can nhưng chị N vẫn không nghe nên giữa anh và chị N đã phát sinh mâu thuẫn trầm trọng không thể hàn gắn được. Chị N thì cho rằng anh Đ có người phụ nữ khác bên ngoài nên anh chị đã sống ly thân nhiều năm nay. Tòa án đã tạo điều kiện để anh chị hòa giải đoàn tụ nhưng anh Đ vẫn cương quyết xin ly hôn. Hội đồng xét xử, xét thấy hôn nhân của anh, chị đã mâu thuẫn kéo dài và anh Đ yêu cầu ly hôn một lần vào năm 2017 nhưng Tòa án đã không chấp nhận yêu cầu của anh Đ để anh chị hàn gắn và cùng nhau nuôi con nhưng cả hai anh chị không có hướng khắc phục nên anh chị không thể hàn gắn được mối quan hệ vợ chồng của anh chị, do đó mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Đ là phù hợp.
[2] Về con chung: Trong thời gian chung sống anh chị có hai người con chung là Trần Thùy L, sinh ngày 28/10/2005 và Trần Hoàng H, sinh ngày 11/9/2015, khi ly hôn chị N yêu cầu được nuôi cả hai con chung, yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi hai con là 6.000.000 đồng/tháng hoặc cấp dưỡng nuôi hai con mỗi tháng là 1500.000 đồng nhưng phải cấp dưỡng một lần đến khi hai con tròn 18 tuổi. Anh Đ đồng ý giao cả hai con chung cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng và anh Đ đồng ý cấp dưỡng nuôi hai con là 2.000.000 đồng/tháng.
Xét yêu cầu của chị N về việc cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1500.000 đồng /2 cháu nhưng phải cấp dưỡng một lần. Anh Đ không đồng ý theo yêu cầu của chị N, nên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu của chị N về việc cấp dưỡng một lần để nuôi con chung. Đối với yêu cầu của chị N về việc cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu 3.000.000 đồng/tháng là cao so với quy định của pháp luật về mức thấp nhất là 695.000 đồng/tháng. Do đó chấp nhận sự nguyện của anh Đ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng/01 cháu là phù hợp. Thời gian cấp dưỡng từ khi xét xử sơ thẩm đến khi và các cháu tròn 18 tuổi.
Người không trực tiếp nuôi con nhưng có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.
[3] Về tài sản chung: Chị N xác định có 01 căn nhà địa chỉ số 62/22A, Lý Thường Kệt, khóm 1, phường 7, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. Nhà trị giá 600.000.000 đồng xây dựng trên phần đất của cha mẹ chồng là bà Võ Thị Bé B và ông Trần Văn A cho nhưng chưa chuyển tên, sau ly hôn yêu cầu chia đôi giá trị căn nhà trên, yêu cầu nhận 300.000.000 đồng và giao nhà cho anh Đ.
Căn cứ vào đơn Phản tố đề ngày 11/9/2018 của chị N, cùng ngày Tòa án có giao cho chị N giấy báo nộp tiền tạm ứng án phí đối với yêu cầu chia tài sản chung của chị N. Hết thời hạn theo quy định nhưng chị N không nộp tạm ứng vì chị N cho rằng vì hoàn cảnh khó khăn không có tiền dự nộp. Do đó, chị N không dự nộp tạm ứng án phí theo thủ tục chung nên Hội đồng xét xử tách yêu cầu chia tài sản chung của chị N ra, không xem xét trong vụ án này.
[4] Đối với các khoản nợ chị N đặt ra nhưng các chủ nợ không nộp đơn yêu cầu và cũng không dự nộp án phí nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. [5] Án phí dân sự: Đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của anh Trần Hoàng Đ về việc xin ly hôn chị Nguyễn Cẩm N.
Về con chung: Giao con chung là Trần Thùy L, sinh ngày 28/10/2005 và Trần Hoàng H, sinh ngày 11/9/2015 cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng.
Buộc anh Trần Hoàng Đ cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu 1.000.000 đồng/ tháng, thời gian cấp dưỡng từ ngày xét xử sơ thẩm (08/11/2018) đến khi các cháu tròn 18 tuổi.
Anh Trần Hoàng Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.
Kể từ ngày chị N có đơn yêu cầu thi hành án, nếu anh Đ không tự nguyện thi hành xong khoản tiền cấp dưỡng, thì phải trả thêm khoản lãi phát sinh theo mức lãi suất phát sinh do chậm thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự.
Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng và án phí cấp dưỡng 300.000 đồng, anh Trần Hoàng Đ phải nộp, ngày 22/8/2018, anh Trần Hoàng Đ đã nộp tạm ứng số tiền 300.000 đồng theo biên lai số 0001237 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau, được chuyển thu án phí. Anh Đ còn phải nộp tiếp số tiền 300.000 đồng.
Các trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng những người vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao nhận hoặc bản án được niêm yết công khai.
Bản án 233/2018/HNGĐ-ST ngày 08/11/2018 về xin ly hôn
Số hiệu: | 233/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 08/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về