bản án 232/2021/DS-ST ngày 20/04/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN PHÚ NHUẬN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

 BẢN ÁN 232/2021/DS-ST NGÀY 20/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

 Ngày 20 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án thụ lý số: 359/2020/TLST-DS ngày 10 tháng 6 năm 2020 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2020/QĐXXST-DS ngày 02 tháng 4 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Trương Minh H.

Địa chỉ: Đường P, Phường L, quận M, Thành phố Hồ Chí Minh Đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Bùi B là đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 28/5/2020) (Có đơn vắng mặt)

2. Bị đơn: Ông Lâm Phúc L và bà Lã Thị Thùy V Địa chỉ: Đường S, Phường O, quận N, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có đơn xin vắng mặt)

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 28/5/2020 của ông Trương Minh H và quá trình giải quyết vụ án ông Bùi B là người đại diện của nguyên đơn trình bày:

Căn cứ Hợp đồng vay tiền ngày 22/4/2011, bà Lã Thị Thùy V và ông Lâm Phúc L vay của ông Trương Minh H số tiền 1.100.000.000 đồng, thời hạn vay 06 tháng, với lãi suất 5%/tháng.

Kể từ ngày vay tiền cho đến nay, bà V và ông Lâm vẫn chưa trả cho ông H tiền gốc và lãi như thỏa thuận trên.

Do vậy ông Trương Minh H khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông Lâm Phúc L và bà Lã Thị Thùy V trả cho ông số tiền 1.100.000.000 đồng, không yêu cầu trả lãi, thanh toán làm một lần ngay sau khi bản án, quyết định của Tòa có hiệu lực pháp luật.

Tại các bản tự khai ngày 18/6/2020 và ngày 22/10/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, các đồng bị đơn ông Lâm Phúc L và bà Lã Thị Thùy V trình bày:

Các bị đơn xác nhận có nợ ông Trương Minh H số tiền 750.000.000 đồng. Đến ngày 22/4/2011 thì ông Lâm và bà V đã ký Hợp đồng vay tiền như lời trình bày của đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và xác nhận vẫn chưa trả tiền cho ông H theo hợp đồng vay tiền đã ký. Nay ông Trương Minh H yêu cầu ông L và bà V trả số tiền 1.100.000.000 đồng, ông L và bà V đồng ý.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:

+ Về việc tuân theo pháp luật của theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã được thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

+ Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh nhận định:

[1] Về tố tụng:

Ông Trương Minh H khởi kiện yêu cầu giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản đối với bị đơn ông Lâm Phúc L và bà Lã Thị Thùy V có hộ khẩu thường trú tại quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn ông Lâm Phúc L và bà Lã Thị Thùy V đang bị tạm giam nên có đơn xin xét xử vắng mặt, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn cũng có đơn xin xét xử vắng mặt. Theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt các đương sự.

[2] Về nội dung tranh chấp:

Căn cứ Hợp đồng vay tiền ngày 22/4/2011, thời hạn vay 06 tháng, giữa bà Lã Thị Thùy V và ông Lâm Phúc L với ông Trương Minh H.

Căn cứ vào các bản tự khai của bà Lã Thị Thùy V và ông Lâm Phúc L thừa nhận còn nợ ông Trương Minh H số tiền 1.100.000.000 đồng theo Hợp đồng vay tiền ngày 22/4/2011, đến nay vẫn chưa trả.

Do đó yêu cầu khởi kiện của ông Trương Minh H buộc ông Lâm Phúc L và bà Lã Thị Thùy V trả số tiền 1.100.000.000 đồng là phù hợp với quy định tại Điều 471, 474 Bộ luật dân sự năm 2005, do đó yêu cầu của nguyên đơn có căn cứ chấp nhận.

Ghi nhận việc ông Trương Minh H không yêu cầu bà Lã Thị Thùy V và ông Lâm Phúc L trả lãi.

[3] Về án phí:

Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Luật Phí và Lệ phí năm 2015, ông Lâm Phúc L và bà Lã Thị Thùy V phải chịu án phí sơ thẩm nhưng được miễn nộp theo điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14 và Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm a, b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 471 và 474 Bộ luật dân sự năm 2005;

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015 và điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14 và Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30 tháng 12 năm 2016;

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phám Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014). Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn - Ông Trương Minh H:

Buộc ông Lâm Phúc L và bà Lã Thị Thùy V phải trả cho ông Trương Minh H số tiền là 1.100.000.000 (Một tỷ một trăm triệu) đồng theo Hợp đồng vay tiền ngày 22/4/2011.

Ghi nhận việc ông Trương Minh H không yêu cầu bà Lã Thị Thùy V và ông Lâm Phúc L trả lãi.

2. Về án phí:

- Ông Lâm Phúc L và bà Lã Thị Thùy V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 45.000.000 (Bốn mươi lăm triệu) đồng nhưng được miễn nộp.

- Ông Trương Minh H không phải chịu án phí nên được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 40.365.000 (Bốn mươi triệu ba trăm sáu mươi lăm ngàn) đồng theo biên lai thu tiền số 0042846 ngày 10 tháng 6 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Về nghĩa vụ thi hành án:

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo:

Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 bản án 232/2021/DS-ST ngày 20/04/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:232/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Phú Nhuận - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về