Bản án 232/2019/HS-ST ngày 13/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 232/2019/HS-ST NGÀY 13/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 250/2019/TLST-HS ngày 28 tháng 10 năm 2019; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 254/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Trung T, sinh năm 1988; tại: Bình Dương; nơi cư trú: Số 15, tổ 57, khu phố 4, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Kim L và bà Bùi Thị Kim H; bị cáo chưa có vợ con; tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 25/4/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương ban hành quyết định số 29/QĐ-TA về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Nhân thân:

Ngày 21/9/2010, bị Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 233/2010/HSST.

Ngày 10/7/2012, bị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tình Bình Dương xử phạt 03 (ba) năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 161/2012/HSST.

Bị cáo bị bắt ngày 28/5/2019 và tạm giam cho đến nay; có mặt.

Người làm chứng: Ông Phạm Quốc T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 26/5/2019, Nguyễn Trung T đang ở ki-ốt, địa chỉ tại số 6, tổ 53, khu 7, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương thì T nảy sinh ý định đi mua ma túy về sử dụng nên T thuê xe ôm chở T đến khu vực Đồng sến thuộc xã Tân Thạnh Đông, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến nơi, T gặp người nam (không xác định rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua ma túy với số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng thì người nam đồng ý và đưa cho T 01 (một) đoạn ống hút nhựa hàn kín hai đầu, bên trong có chứa chất ma túy rồi nhận số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng của T. Lúc này, T cất ma túy vào trong túi quần rồi thuê xe ôm chở T đi về ki-ốt của T. Tại ki-ốt, Tín cất 01 (một) đoạn ống hút nhựa hàn kín hai đầu, bên trong có chứa chất ma túy vào hũ đựng tăm rồi để trên nền nhà. Đến khoảng 23 giờ 40 phút cùng ngày 27/5/2019, Công an phường Tân An, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương kiểm tra hành chính ki-ốt của Nguyễn Trung T thì phát hiện T đang có hành vi Tàng trữ 01 (Một) đoạn ống hút nhựa hàn kín hai đầu, bên trong có chứa chất ma túy. Công an phường Tân An thu giữ vật chứng: 01 (Một) đoạn ống hút nhựa hàn kín hai đầu, bên trong có chứa chất ma túy.

Tại Bản Kết luận giám định số 418 ngày 30/5/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: 01 (Một) đoạn ống hút nhựa hàn kín hai đầu, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, được niêm phong trong bì thư có chữ ký người bị bắt Nguyễn Trung T, cán bộ niêm phong Châu Thanh Đ và hình dấu đỏ của Công an phường Tân An, thành phố Thủ Dầu Một là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 0,1249 gam.

Đối với 01 (Một) đoạn ống hút nhựa hàn kín hai đầu, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng sau giám định là: 0,0773 gam thu giữ của Nguyễn Trung T, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một để đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu, tiêu hủy.

Đối với người nam đã có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Trung T, quá trình điều tra xác định T không biết nhân thân, lai lịch của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố Thủ Dầu Một không có căn cứ để điều tra, xử lý.

Cáo trạng số 268/CT-VKS-HS ngày 28/10/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Trung T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Trung T từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

Về biện pháp tư pháp: Đối với 01 (một) ống hút nhựa hàn kín hai đầu, trọng lượng sau giám định 0,0773gam, theo kết luận giám định số 418/MT- PC09 ngày 30/5/2019 là tang vật của vụ án nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo Nguyễn Trung T không có ý kiến tranh luận, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng cũng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Trung T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, các lời khai trong quá trình điều tra và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ căn cứ kết luận: Khoảng 23 giờ 40 phút ngày 27/5/2019, Nguyễn Trung T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,1249 gam ma túy, loại Methamphetamine tại ki-ốt địa chỉ số 6, tổ 53, khu 7, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương để sử dụng thì bị Công an phường Tân An, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương phát hiện bắt quả tang nên hành vi mà bị cáo Nguyễn Trung T thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo với tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động quản lý của Nhà nước về ma túy và các chất gây nghiện; xâm phạm đến an ninh, trật tự xã hội tại địa phương. Hiện nay tội phạm về ma túy đang diễn biến phức tạp, là một trong những nguyên nhân dẫn đến các tội phạm khác. Bị cáo có một tiền sự bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc chưa được xóa án tích, ngoài ra bị cáo còn nhiều lần bị xét xử về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” chứng tỏ bị cáo là đối tượng xem thường pháp luật. Do đó, để có tác dụng giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, xét thấy mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 (một) ống hút nhựa hàn kín hai đầu, trọng lượng sau giám định 0,0773 gam, theo Kết luận giám định số 418/MT-PC09 ngày 30/5/2019 là tang vật của vụ án nên tịch thu tiêu hủy.

[8] Kiến nghị Cơ quan Cảnh sát Điều tra, Công an thành phố Thủ Dầu Một tiếp tục điều tra làm rõ hành vi của người nam đã có hành vi bán ma túy cho bị cáo T vào ngày 26/5/2019 tại khu vực Đồng Sến thuộc xã Tân Thạnh Đông, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 và Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Các Điều 106, 136, 260 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trung T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung T 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/5/2019.

2. Về xử lý vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) ống hút nhựa hàn kín hai đầu, trọng lượng sau giám định 0,0773gam, theo Kết luận giám định số 418/MT-PC09 ngày 30/5/2019.

(Thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng số 031.20 ngày 30/10/2019 giữa Chỉ cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một và Công an thành phố Thủ Dầu Một).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Trung T phải nộp 200.000đ.

4. Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 232/2019/HS-ST ngày 13/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:232/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về