TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 232/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 15 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 383/2019/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 4 năm 2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 399/2019/QĐXX-ST ngày 03 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thu T- sinh năm 1974. Cư trú: Ấp N, xã M, huyện C, tỉnh An Giang. Có mặt.
2. Bị đơn: Anh Phan Thành D - sinh năm 1972. Cư trú: Ấp N, xã M, huyện C, tỉnh An Giang, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thu T trình bày: Chị và anh Phan Thành D kết hôn và chung sống với nhau năm 1997 có đăng ký kết hôn, hôn nhân do quen biết tìm hiểu trước được gia đình đồng ý. Vợ chồng chung sống đến năm 2009 thì mâu thuẫn do chồng thường xuyên uống rượu về chửi chị, thường cự cãi chị có khuyên nhiều lần nhưng anh D không sửa đổi nên từ đó không ai quan tâm đến nhau. Nay nhận thấy tình cảm không còn chị yêu cầu được ly hôn anh D.
Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung tên Phan Thị Kim A, sinh ngày 29/11/1998, Phan Thành V, sinh ngày 16/10/2000. Hai con đã trưởng thành, Phan Thị Kim C, sinh ngày 05/4/2007 (cháu C đang sống chung với mẹ). Khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung tên Phan Thị Kim C, không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Không có.
Bị đơn anh Phan Thành D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần, nhưng anh D không đến, không gửi ý kiến bằng văn bản, nên không có lời khai.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới phát biểu ý kiến, việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký và những người tham gia tố tụng chấp hành đúng quy định của pháp luật. Đối với anh D được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không lý do, nên Tòa án xét xử vắng mặt là đúng quy định. Về giải quyết vụ án, hôn nhân giữa Chị T và anh D là hợp pháp vì có đăng ký kết hôn. Vợ chồng mâu thuẫn và có thời gian dài nên vợ chồng không thể hàn gắn, Chị T đang nuôi con, anh D không có ý kiến về việc đơn khởi kiện của Chị T, do đó yêu cầu ly hôn, và nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử quyết định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị Thu T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Phan Thành D, anh D có nơi cư trú tại ấp N, xã M, huyện C, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Anh Phan Thành D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án.
[2]. Về nội dung
[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thu T và anh Phan Thành D chung sống với nhau vào năm 1997 có đăng ký kết hôn theo quy định. Xét tình trạng hôn nhân của anh, chị thấy rằng vợ chồng mâu thuẫn kéo dài nguyên nhân do anh D thường hay uống rượu về chửi mắng trong gia đình vợ chồng thường xuyên cự cãi nhau, anh D không thay đổi cách sống nên vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Qua xác minh tại địa phương cũng nhận thấy vợ chồng mâu thuẫn cho thấy hôn nhân của vợ chồng Chị T và anh D đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nghĩ nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Chị T.
[2.2]. Về quan hệ con chung: Vợ chồng có 03 con chung tên Phan Thị Kim A, sinh ngày 29/11/1998, Phan Thành V, sinh ngày 16/10/2000. Hai con đã trưởng thành (nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết), Phan Thị Kim C, sinh ngày 05/4/2007 hiện chị đang nuôi dưỡng, do cháu C trên 07 tuổi và cháu C có tờ tự khai gởi cho Tòa án nguyện vọng của cháu là muốn được sinh sống với mẹ. Căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình nghĩ nên tiếp tục giao cháu C cho chị T nuôi dưỡng. Chị T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con vì vậy không xem xét đến vấn đề cấp dưỡng nuôi con.
Chị Nguyễn Thị Thu T cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở anh Phan Thành D trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.
[2.3]. Về tài sản: Không yêu cầu giải quyết.
[2.4]. Về nợ chung: Ghi nhận chị Nguyễn Thị Thu T xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có đương sự xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì hai bên phải liên đới chịu trách nhiệm trong vụ án khác.
[2.5] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thu T phải chịu theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Điều 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 28, Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 273, điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Thu T xin ly hôn anh Phan Thành D.
Giấy chứng nhận kết hôn số 223 do Ủy ban nhân dân xã N, huyện C, tỉnh An Giang cấp ngày 12/12/2006 không còn giá trị pháp lý.
Về quan hệ con chung: Chị Nguyễn Thị Thu T được nuôi con chung tên Phan Thị Kim C, sinh ngày 05/4/2007, anh D không phải cấp dưỡng nuôi con.
Chị Nguyễn Thị Thu T cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở anh Phan Thành D trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.
Về tài sản: Không yêu cầu giải quyết.
Về nợ chung: Ghi nhận chị Nguyễn Thị Thu T xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có đương sự xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì hai bên phải liên đới chịu trách nhiệm trong vụ án khác.
Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thu T phải chịu 300.000đ được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0012946 ngày 24/4/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới.
Báo cho các bên đương sự biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng anh D có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, thời hạn kháng cáo được tính từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 232/2019/HNGĐ-ST ngày 15/10/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, nuôi con
Số hiệu: | 232/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về