TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI HẬU, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 232/2018/HNGĐ-ST NGÀY 11/10/2018 VỀ LY HÔN
Ngày 11 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hải Hậu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 183/2018/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 8 năm 2018 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 69/2018/QĐXX-ST ngày 02 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị Thanh H, sinh năm 1986; Địa chỉ: Thôn HộDiên, xã HH, huyện NH, tỉnh Ninh Thuận.
2. Bị đơn: Anh Hoàng V, sinh năm 1985; Địa chỉ: Xóm 1, xã HS, huyện HH,tỉnh Nam Định. (Tại phiên tòa chị H, anh V vắng mặt, đều có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 13/6/2018 và bản tự khai, nguyên đơn chị Huỳnh Thị Thanh H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Huỳnh Thị Thanh Hvà anh Hoàng V kết hôn với nhau vào ngày 18/3/2011 tại Ủy ban nhân dân xã HS, huyện HH, tỉnh Nam Định trên cơ sở tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn. Sau khi kết hôn, do kinh tế khókhăn, vợ chồng cùng nhau vào miền Nam làm kinh tế. Quá trình chung sống, mặc dù đã có con chung nhưng thường xuyên mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chị H và anh V sinh ra và lớn lên ở hai vùng miền khác nhau, cách sống và sinh hoạt khác nhau nên tính tình, quan điểm sống không hợp. Sau một thời gian dài mâu thuẫn dẫn đến tình cảm vợ chồng lạnh nhạt, cuộc sống chung không có hạnh phúc. Vợ chồng sống ly thân và chấm dứt mọi quan hệ tình cảm, trách nhiệm kể từ năm 2014 cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân, mặc dù được hai bên gia đình hòa giải nhưng quan hệ vợ chồng không được cải thiện. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị H đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh V.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Hoàng L, sinh ngày07/9/2011 hiện đang ở với anh V. Nay ly hôn, do điều kiện sức khỏe và công việc, chị H đề nghị Tòa án giao con chung của vợ chồng cho anh V tiếp tục nuôi dưỡng, chị H không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho anh V.
Về tài sản chung và công nợ: Quá trình chung sống, vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ chung nên khi ly hôn chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 06/8/2018, bị đơn anh Hoàng V có lời khai phù hợp với lời khai của chị H về thời gian kết hôn, quá trình chung sống, thời gian vợ chồng sống ly thân. Về mâu thuẫn vợ chồng, theo anh V trình bày là do kinh tế khó khăn, vợ chồng không tin tưởng nhau, không có sự đồng nhất về quan điểm nên thường xuyên cãi chửi nhau. Mặc dù đã được đôi bên gia đình khuyên bảo nhưng quan hệ vợ chồng không được cải thiện, vợ chồng sống cùng nhà nhưng không có trách nhiệm gì với nhau. Nay chị H làm đơn xin ly hôn, anh V cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn nên nhất trí thuận tình ly hôn.
Về con chung: Anh V xác nhận vợ chồng có 01 con chung như chị H đã trình bày. Khi ly hôn, nguyện vọng của anh V được nuôi con chung và không yêu cầu chị H đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và công nợ: Vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ ai và không cho ai vay nợ nên khi ly hôn anh V không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Do điều kiện công việc và thực trạng mâu thuẫn vợ chồng nên chị H, anh Vđều có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải và xin xét xử vắng mặt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiêntoà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Do nguyên đơn chị Huỳnh Thị Thanh H và bị đơn anh Hoàng V đều có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị H, anh V là phù hợp.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ vợ chồng giữa chị Huỳnh Thị Thanh H và anh Hoàng V là quan hệ hôn nhân hợp pháp vì được xây dựng trên cơ sở tự nguyện và được UBND xã HS, huyện HH, tỉnh Nam Định đăng ký kết hôn ngày18/3/2011. Do vợ chồng tính tình, quan điểm sống không hợp; chị H và anh V sinh ra và lớn lên ở hai vùng quê khác nhau nên lối sống, cách suy nghĩ, sinh hoạt cũng khác nhau. Do không biết cách dung hòa lẫn nhau nên thường xuyên mâu thuẫn dẫn đến tình cảm vợ chồng lạnh nhạt, cuộc sống chung không có hạnh phúc. Vợ chồng sống ly thân và chấm dứt mọi quan hệ tình cảm và trách nhiệm đối với nhau từ năm 2014 đến nay. Do đó, chị H đề nghị xin được ly hôn với anh V, anh V nhất trí thuận tình ly hôn.
[3] Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh V đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận nguyện vọng xin ly hôn của chị H là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
[4] Về con chung: Chị Huỳnh Thị Thanh H và anh Hoàng V có 01 con chung là cháu Hoàng L, sinh ngày 07/9/2011, hiện con chung đang do anh V nuôi dưỡng. Khi ly hôn, anh V có nguyện vọng nuôi con chung và không yêu cầu chị H đóng góp tiền cấp dưỡng. Cháu Hoàng L cũng có nguyện vọng xin được ở với anh Hoàng V. Xét nguyện vọng chị H, anh V, cháu Hoàng L trong việc nuôi con là tự nguyện, không trái đạo đức xã hội nên cần chấp nhận giao con chung cho anh V tiếp tục nuôi dưỡng. Về vấn đề cấp dưỡng, do chị H, anh V không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.
[5] Về tài sản chung và công nợ: Chị Huỳnh Thị Thanh H và anh Hoàng V khai xác nhận vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ chung. Khi ly hôn chị H, anh V không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.
[6] Về án phí: Chị Huỳnh Thị Thanh H phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 55, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Huỳnh Thị Thanh H và anh Hoàng V.
2. Về con chung: Giao con chung là cháu Hoàng L, sinh ngày 07/9/2011 cho anh Hoàng V nuôi dưỡng đến khi các con chung thành niên, có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình hoặc khi chị H, anh V có yêu cầu khác. Chị H không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho anh V và được quyền đi lại chăm sóc con, nhưng không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh H xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con.
3. Về án phí: Chị Huỳnh Thị Thanh H phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số AA/2016/0000111 ngày 06 tháng 8 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hải Hậu; chị Huỳnh Thị Thanh H đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 232/2018/HNGĐ-ST ngày 11/10/2018 về ly hôn
Số hiệu: | 232/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hải Hậu - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 11/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về