Bản án 23/2021/HS-ST ngày 13/05/2021 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 23/2021/HS-ST NGÀY 13/05/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 13 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 12/2021/TLST-HS ngày 26/ 3/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2021/QĐXXST-HS, ngày 28/4/2021 đối với:

* Các bị cáo:

1. Phạm Văn U (tên gọi khác: Phạm Văn T), sinh ngày 15/6/1989, tại tỉnh Thái Bình.

Nơi cư trú: Số nhà 509, CT1, khu đô thị 379, tổ 36, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Bình. Nghề ngH1: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn T và bà KH2 Thị H, có vợ là Nguyễn Thị Phương M và 1 con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

+ Ngày 05/6/2020 bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình khởi tố về tội Cưỡng đoạt tài sản, vụ án đang trong giai đoạn điều tra.

+ Bản án số 47/2020/HSST ngày 29/9/2020 của Toà án nhân dân tỉnh Thái Bình xử phạt 13 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/6/2019 về tội Giết người.

Bị cáo đang chấp hành án tại Trại giam Ninh Khánh, được trích xuất đến Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

 2. Vũ Đình K, sinh ngày 04/7/1984, tại tỉnh Thái Bình.

Nơi cư trú: Thôn V, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình.

Nghề ngH1: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ Đình K (đã chết) và bà Hoàng Thị S, có vợ là Triệu Thị T và 2 con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

+ Bản án số 47/2020/HSST ngày 29/9/2020 của Toà án nhân dân tỉnh Thái Bình xử phạt 12 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/6/2019 về tội Giết người, K kháng cáo, sau đó rút kháng cáo, vụ án đã được đình chỉ xét xử phúc thẩm. Bị cáo bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa) Luật sư bào chữa cho bị cáo Vũ Đình K: Ông Lê Tiến Dũng - Luật sư, Công ty Luật số 1 Quốc Việt; Địa chỉ: Số 84 đường số 9, tổ 11 phường Trần Hưng Đạo, TP Thái Bình, tỉnh Thái Bình. (có mặt).

* Bị hại:

Anh Nguyễn Cơ T, sinh năm 1987 (có mặt).

Nơi cư trú: Thôn T3 Hồng, xã H, huyện V, tỉnh Thái Bình.

* Người làm chứng:

1. Anh Bùi Tiến C, sinh năm 1980 Nơi cư trú: Khu N, xã H, huyện V, tỉnh Thái Bình.

2. Anh Trần Đức T1, sinh năm 1971 Nơi cư trú: Thôn Q, xã H, huyện V, Thái Bình.

3. Ông Phạm Ngọc T2, sinh năm 1960 Nơi cư trú: Thôn Q, xã H, huyện V, Thái Bình.

4. Anh Hoàng Trọng K1, sinh năm 1994 Nơi cư trú: Thôn N, xã Tam Quang, huyện V, Thái Bình.

5. Anh Trịnh Xuân D, sinh năm 1995 Nơi cư trú: Thôn Q, xã S, huyện V, tỉnh Thái Bình.

6. Anh Lê Xuân Q, sinh năm 1990 Trú tại: Thôn T, xã V, TP T, tỉnh Thái Bình.

(Anh K1 có mặt, người làm chứng khác vắng mặt không lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 09/10/2012, nhóm của Anh Nguyễn Cơ T gồm: Anh T, Lê Xuân Q, Hoàng Trọng K1, Trịnh Xuân D đi ăn đêm tại thị trấn V, huyện V, tỉnh Thái Bình thì gặp Bùi Tiến H1, Hoàng T3 H2, Trần Đức T3. Quá trình ngồi ăn giữa Q và H1 xảy ra mâu thuẫn, Q đã đuổi đánh H1. H1 bỏ chạy, H2 và T3 cũng đứng dậy đi về.

Đến khoảng 23 giờ, nhóm của anh T mua 5-6 chai bia mang ra cầu Thẫm tiếp tục ngồi uống. Cùng thời gian này, nhóm của Vũ Đình K gồm: K, Phạm Văn U, Hoàng Văn T4 và Nguyễn Như T5 sau khi ăn tối uống rượu, đi hát rồi ra khu vực cầu Thẫm ăn đêm. Khi ra đến đường Quốc lộ 10, đối diện cầu Thẫm, T4 đi vệ sinh thì một người trong nhóm của anh T có lời nói xúc phạm. K, U, T4 đi sang chỗ nhóm anh T ngồi. K nhận ra anh T nên đứng nói chuyện, U không nói gì. T4 tức chuyện vừa bị xúc phạm nên nói “chúng mày thích gì”. Thấy T4 thách thức, Q đứng dậy cầm một chai bia, đập vỡ đáy chai rồi đập vào vùng đầu T4 một nhát, T4 bỏ chạy, Q đuổi theo. Thấy Q đánh T4, những người còn lại trong nhóm T cầm vỏ chai bia đuổi đánh U và K. Anh T đuổi K chạy được khoảng 50 mét thì không đuổi nữa. U bị nhóm của anh T dùng vỏ chai bia đập 2 nhát vào vùng đầu và đâm 1 nhát vào lưng làm rách da, chảy máu. U bỏ chạy, nhóm anh T không đuổi nữa. T4 chạy khoảng 100m thì Q đuổi kịp và tiếp tục dùng vỏ chai bia vỡ đâm 2 nhát, đập 1 nhát vào vùng đầu bên trái, sau đó anh T cùng Q, D, Hoàng K đi về phía chợ T xã H.

Vũ Đình K đi mượn xe máy, chở anh T4 vào Bệnh viện cấp cứu, sau đó trả xe rồi đi bộ về phía quán cầm đồ của mình, đi đến nhà hàng Cây Nhãn thì gặp U. U rủ K đi tìm nhóm của anh T để đánh. K đồng ý và nhổ một đoạn gậy gỗ dài khoảng 80cm đường kính khoảng 3cm chống cây ở ven đường mang theo.

H1, sau khi bỏ chạy đã nhờ H2 chở bằng xe máy quay lại thị trấn V, đến cầu Thẫm thì thấy nhóm của K đi về phía xã H nên H1 bảo H2 lái xe đi theo. H1 không biết mâu thuẫn giữa nhóm K và nhóm anh T, không biết K và U đi tìm anh T để đánh.

T5 điều khiển xe máy đi tìm K để đưa chìa khóa nhà. T5 không biết K và U đi tìm anh T để đánh. Đi đến chợ T xã H, T5 gặp K, U, H1, H2 rồi tất cả cùng đi. T5 điều khiển xe máy chở K và U, còn H2 chở H1.

Nhóm của anh T đi về đứng ở lối vào sân vận động xã H. Nhóm của K đi đến cổng sân vận động thì bị nhóm của anh T cầm gạch ném, K bị ném vào chân. K và U nhảy xuống xe, U giật đoạn gậy trên tay K xông vào đuổi đánh nhóm anh T đang chạy vào sân vận động. K cũng đi theo. Q, D, K1 chạy trước, anh T chạy sau. U đuổi đến cuối lối vào giáp với sân vận động thì nhìn thấy dưới đất có một bao tải, bên trong có nhiều hung khí nên vứt bỏ gậy, tay phải nhặt một con dao quắm (dài khoảng 65cm cán hình tròn dài khoảng 35cm, phần lưỡi bằng kim loại dài khoảng 30cm, bản rộng khoảng 4cm), tay trái nhặt một con dao mèo (dài khoảng 40cm, cán tròn dài khoảng 10cm, phần lưỡi dao dài khoảng 30cm, bản rộng nhất khoảng 6cm). U cầm hai con dao đuổi theo anh T. Đến giữa sân vận động, khi còn cách anh T khoảng hơn 1 mét, U dùng dao quắm giơ lên chém với một nhát từ trên xuống dưới trúng vào lưng anh T. Anh T tiếp tục chạy về phía cuối sân vận động tiếp giáp với nghĩa trang (khu vực này có nền đất thấp hơn sân khoảng 20-25cm, có nước ướt bàn chân) thì U đuổi kịp, khi cách khoảng hơn 1 mét, U dùng dao quắm chém một nhát từ trên xuống dưới, từ phải qua trái trúng vào bả vai trái anh T làm anh T dừng lại và khụy chân phải xuống đất. U đứng sau lưng anh T tiếp tục chém 1 nhát từ trên xuống dưới, từ phải qua trái trúng cánh tay phải, chém 1 nhát từ trên xuống dưới, từ trái qua phải trúng cẳng tay trái anh T. Sau đó tay trái U cầm dao mèo chém thêm 2-3 nhát nữa vào lưng anh T. Thấy anh T không chống cự gì nên U dừng lại, vòng tay qua nách từ phía sau ôm ngang ngực anh T, lôi anh T lên sân vận động.

Sau khi bị ném gạch vào chân, K chạy vào chỗ U đang đánh anh T. Lúc này anh T bị U chém và đang khụy chân xuống đất. K đứng trước mặt, cách anh T khoảng 1 mét, hỏi “sao mày đánh em tao”, ý là tại sao trước đó nhóm của anh T lại đánh T4 và U. Anh T xin K và U đừng đánh nữa. U dùng chân phải đạp vào sườn trái làm anh T ngã nằm ra đất rồi dùng sống dao quắm vụt 2 nhát vào bắp chân trái anh T. Anh T ngồi dậy, U tiếp tục đạp một nhát nữa làm anh T ngã nằm úp xuống đất. U đổi tay phải cầm dao mèo cứa một nhát vào mắt cá ngoài chân phải của anh T.

H1, H2 và T5 thấy U, K đuổi theo nhóm anh T nên cũng đi vào trong sân vận động. H2 dừng xe, đứng ở khu vực giữa sân cách chỗ anh T khoảng 30 đến 40 mét. H1 và T5 đi bộ đến cách chỗ anh T khoảng 10 mét. Khi U và K bỏ đi, H1, H2 và T5 cũng đi về. Trên đường về, U đã ném 2 con dao ở dọc đường, không nhớ khu vực nào.

Anh T chạy đến trước cửa nhà anh Trần Đức T1 kêu cứu và được mọi người đưa vào bệnh viện cấp cứu sau đó chuyển lên bệnh viện Việt Đức tại Hà Nội điều trị.

Sau khi gây án, U bàn với K nhờ anh Nguyễn Xuân V cùng vợ K đến nhà anh T hòa giải, bồi thường. Khi đến nhà anh T còn có Tô Văn Sơn và Nguyễn Xuân Đường đi cùng. Hai bên đã thống nhất, gia đình K bồi thường cho anh T 230 triệu đồng, bố anh T đã ký vào đơn từ chối giám định thương tích.

Ngày 04/5/2020 anh T đã có đơn gửi cơ quan điều tra, do trước đây không hiểu biết pháp luật, lo sợ bị trả thù, đến nay anh T thấy các đối tượng gây thương tích cho anh không bị xử lý nên anh làm đơn đề nghị xử lý các đối tượng theo quy định của pháp luật.

Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân Tối cao đã trưng cầu giám định thương tích của anh T. Tại bản kết luận giám định pháp y số 266/GĐ-PY ngày 08/6/2020 của Viện pháp y Q đội, kết luận:

“Dấu hiệu chính qua giám định: … gãy xương sườn, gãy xương cánh tay phải, gãy xương trụ trái, đa vết thương phần mềm vùng lưng, vai trái, tay, chân do tác động của vật sắc, đã điều trị. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích của Nguyễn Cơ T thời điểm giám định là 47%.

Quyết định không khởi tố vụ án hình sự số 02 ngày 26/4/2013 của Công an huyện V và Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Vũ Đình K của Công an huyện V, tỉnh Thái Bình đã bị Cơ quan tố tụng huỷ bỏ.

Cáo trạng số 19/CT-VKSTB ngày 25/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình đã truy tố bị cáo Phạm Văn U về tội: “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự (thuộc trường hợp quy định tại các điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự); Truy tố bị cáo Vũ Đình K về tội: “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự (thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự).

Tại phiên tòa, các bị cáo Phạm Văn U, Vũ Đình K đều thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Bị hại - Anh Nguyễn Cơ T trình bày anh đã nhận 230 triệu đồng do các bị cáo bồi thường, nay không yêu cầu bồi thường khoản tiền nào khác và đề nghị tòa xử lý các bị cáo theo pháp luật.

Phát biểu luận tội, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình giữ nguyên nội dung cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Phạm Văn U, Vũ Đình K phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Đề nghị áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 50, Điều 58; điều 56 Bộ luật hình sự, phạt: Phạm Văn U mức án từ 8 năm đến 9 năm tù Vũ Đình K mức án từ 5 năm đến 6 năm tù Về trách nhiệm dân sự không đặt ra giải quyết. Ngoài ra còn đề nghị tuyên nghĩa vụ án phí và quyền kháng cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Vũ Đình K trình bày: Bị cáo K khai báo thành khẩn, nhận rõ sai trái, ăn năn hối cải, bị hại cũng có lỗi đã đánh bị cáo trước, bị cáo và gia đình đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại, bị cáo K chỉ đi theo, không trực tiếp gây thương tích cho anh T. Đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo K hưởng lượng khoan hồng, xử K mức hình phạt nhẹ nhất.

Bị cáo K không bổ sung lời bào chữa. Bị cáo U không tranh luận.

Bị hại đề nghị Tòa án xử phạt các bị cáo theo quy định của pháp luật.

Nói lời sau cùng: Bị cáo U xin chịu trách nhiệm về hành vi bị cáo đã gây ra. Bị cáo K xin lỗi bị hại và đề nghị Tòa giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quyết định tố tụng, hành vi tố tụng: Quyết định Tố tụng, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Thái Bình, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc kH2 nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vụ án xảy ra ngày 09/10/2012, căn cứ điểm b Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 thì vụ án được áp dụng Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 để xét xử vì có lợi cho các bị cáo.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại: Anh Nguyễn Cơ T; Phù hợp vời khai của những người làm chứng: Anh Bùi Tiến C, anh Trần Đức T1, ông Phạm Ngọc T2, anh Hoàng Trọng K1, anh Trịnh Xuân D, anh Lê Xuân Q, phù hợp với kết luận giám định thương tích của anh T, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

+ Phạm Văn U khai nhận: Do bực tức vì bị nhóm của T đánh, U đã rủ K cầm theo một đoạn gậy gỗ đi đánh nhóm T. Đến cổng sân vận động, U nhặt được 2 con dao, đuổi theo chém nhiều nhát vào vùng vai, hai tay, vùng lưng của anh T, dùng sống dao quắm vụt nhiều nhát vào bắp chân anh T và cứa vào chân T, thời gian diễn ra khoảng 5 phút. U không rủ T5, không nói gì với T5 về việc đi đánh anh T. U có nhìn thấy H1 đứng gần đó, nhưng lúc này U đã đánh anh T xong. Chỉ có 1 mình U đánh gây thương tích cho anh T. Bị cáo không có ý định đánh chết anh T vì có 2 con dao việc chém chết anh T rất dễ dàng và nhanh chóng.

+ Vũ Đình K khai nhận: Do bực tức vì bị nhóm của anh T đuổi đánh nên khi nghe U rủ đi đánh nhóm anh T, K đồng ý và nhổ 1 đoạn gậy mang theo để đánh. Khi K đi bộ vào thấy anh T ngồi dưới sân, K hỏi anh T “sao mày lại đánh em tao” rồi K bỏ đi. U ra sau và nói “em chém nó rồi”. K nhìn thấy U cầm dao quắm.

+ Bị hại - Anh Nguyễn Cơ T khai: Khi nhóm của anh đến khu vực cổng sân vận động thì bị nhóm người cầm đao, kiếm đuổi theo. Nhóm của anh bỏ chạy vào trong sân vận động, anh chạy sau cùng đến cuối sân vận động thì bị U chém một nhát vào vùng bả vai bên trái, chạy đến khu vực giáp nghĩa trang, anh bước hụt chân xuống 1 hố có nước, U có kéo anh lên sân. Lúc đó anh nhìn thấy Vũ Đình K đứng cách anh khoảng 1 mét. K cầm đao bằng tay phải bổ một nhát từ trên xuống, anh dơ tay lên đỡ thì bị trúng vào cẳng tay trái, ngay lúc đó U đứng đằng sau cũng chém một nhát từ trên xuống về phía anh, anh dơ tay lên đỡ thì bị chém vào cánh tay phải, anh bị gãy hai tay. Anh xin K đừng chém nữa. U tiếp tục dùng dao chém vào lưng anh, anh chửi U. U cầm cẳng chân phải của anh lên cứa một nhát vào mắt cá chân rồi đạp anh ngã xuống, sau đó nhóm K bỏ đi, thời gian diễn ra khoảng 4-5 phút.

Từ các chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử đã đủ căn cứ kết luận: Do có mâu thuẫn trước đó nên đêm ngày 09/10/2012, Vũ Đình K mang theo 1 gậy gỗ cùng với Phạm Văn U đuổi theo nhóm anh T vào trong sân vận động xã Hoà Bình, U dùng 2 con dao chém nhiều nhát vào vùng lưng, tay của anh T. K đến sau hỏi “sao mày đánh em tao”. U tiếp tục dùng chân đạp anh T ngã ra đất dùng dao chém và cứa vào chân anh T. Hậu quả anh T bị đa chấn thương, với tỷ lệ tổn thương do thương tích gây nên là 47%.

U với 2 tay 2 con dao, anh T không có hung khí, lại bị ngã thì việc chém chết anh T chỉ trong giây lát. Việc U nhằm vào tay, chân, vai để chém với mục đích gây thương tích cho anh T, không có ý định giết anh T như U khai là phù hợp với thực tế. U dùng hung khí nguy hiểm chém anh T, khi anh T đã không còn chống cự được, U vẫn dùng chân đạp và dùng dao chém anh T, thể hiện tính côn đồ, hung hãn của U. K thống nhất hành động cùng U đi đánh anh T, hăng hái chuẩn bị hung khí là đoạn gậy gỗ và có lời lẽ gây hấn, hành vi của K đã củng cố tinh thần, tạo động lực quyết tâm thực hiện hành vi phạm tội của U. Do đó K phải chịu chung hậu quả do hành vi của U gây ra. Vì vậy hành vi của các bị cáo Phạm Văn U, Vũ Đình K đã phạm tội: “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự - thuộc trường hợp quy định tại điểm a, i khoản 1 điều 134 BLHS - như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

“Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

…………..

i) Có tính chất côn đồ;

……….

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

…….

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;

…….” [3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của các bị cáo thấy:

Các bị cáo đã phạm tội rất nghiêm trọng gây nguy hại rất lớn cho xã hội, xâm phạm sức khỏe con người, làm mất trật tự, trị an, tại địa phương, coi thường kỷ cương pháp luật, gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, cần phải xử phạt các bị cáo mức hình phạt thỏa đáng theo tính chất, mức độ hành vi của từng bị cáo để cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành người lương thiện và góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng thống nhất ý chí và cùng thực hiện hành vi, U là người khởi xướng, rủ rê, trực tiếp gây thương tích cho anh T nên U giữ vai trò chính trong vụ án. K đồng phạm với vai trò giúp sức tích cực.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo:

Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ, bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; người bị hại có một phần lỗi, quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về mức hình phạt và biện pháp chấp hành hình phạt: Căn cứ vào tính chất mức độ phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo, cần xử phạt cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

Anh T khai bị K cầm đao bổ một nhát vào cẳng tay trái nhưng K không thừa nhận và không có căn cứ chứng minh.

Nguyễn Như T5, Bùi Tiến H1, Hoàng T3, H2 là người đi cùng U, K, song 3 người này không biết việc U, K đi đánh anh T. Ba người này vào sau, đứng ở xa và không có lời nói, hành động gì. Do vậy họ không đồng phạm với U và K.

Phạm Văn U đã bị xử phạt 13 năm tù, Vũ Đình K đã bị xử phạt 12 năm tù tại bản án số 47/2020/HS-PT, bản án đã có hiệu lực pháp luật nên phải được tổng hợp với hình phạt của bản án này.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận số tiền 230.000.000 đồng do các bị cáo bồi thường, nay không yêu cầu bồi thường khoản tiền nào khác, cần được chấp nhận.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, không phải chịu án phí dân sự vì đã bồi thường xong.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Phạm Văn U, Vũ Đình K phạm tội Cố ý gây thương tích.

2. Hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 50; Điều 38, Điều 56 Bộ luật hình sự;

- Xử phạt bị cáo Phạm Văn U 9 năm tù. Tổng hợp với hình phạt 13 năm tù của bản án số 47/2020/HS-ST ngày 29/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình, buộc Phạm Văn U phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 22 (hai mươi hai) năm tù, thời hạn tù tỉnh từ ngày 05/6/2019.

- Xử phạt bị cáo Vũ Đình K 6 năm tù. Tổng hợp với hình phạt 12 năm tù của bản án số 47/2020/HS-ST ngày 29/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình, buộc Vũ Đình K phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 18 (mười tám) năm tù, thời hạn tù tỉnh từ ngày 05/6/2019.

3. Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận việc Anh Nguyễn Cơ T đã nhận 230.000.000đ do các bị cáo bồi thường, nay không yêu cầu bồi thường khoản tiền nào khác.

5. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án; Mỗi bị cáo Phạm Văn U, Vũ Đình K phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo: Các bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, 13/5/2021.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2021/HS-ST ngày 13/05/2021 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:23/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về