TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH LƯU, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 23/2021/HS-ST NGÀY 04/02/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 04 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 14/2021/TLST-HS ngày 22 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2021/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 01 năm 2021, đối với bị cáo:
Họ và tên: Cao Văn  (tên gọi khác: không); sinh năm: 1984 tại tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Xóm 12, xã QuTr, thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: lớp 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Cao Văn T và con bà: Trần Thị T1; vợ, con: Nguyễn Thị Th và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền sự: không; tiền án: ngày 08/3/2016 bị Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An xử phạt 14 (mười bốn) tháng, về các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Trộm cắp tài sản” (bản án số 12/2016/HSST), chấp hành xong hình phạt ngày 25/01/2017 (Giấy chứng nhận số 50/GCN-TGS3); ngày 30/11/2017 bị Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai xử phạt 42 tháng tù, về các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Trộm cắp tài sản” (bản án số 71/2017/HSST), chấp hành xong hình phạt ngày 12/5/2020 (Thông báo số 306/TB); tạm giữ, tạm giam: từ ngày 09/12/2020 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
Bị hại: Chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1979. Nơi cư trú: Thôn 5, xã QuH, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 06/12/2020, Cao Văn  đi qua xã Quỳnh Hoa, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An gặp người phụ nữ đi chăn bò có hỏi thăm và biết chị Nguyễn Thị M nên tìm đến nhà chị M làm quen hỏi xin số điện thoại. Vào lúc 21h, ngày 07/12/2020,  tiếp tục đi đến nhà chị M chơi, có đưa ra một cục giấy gói bằng bao nilong và nói “đây là số tiền 10.000.000đ giúp đỡ em” nhưng chị M không nhận,  bỏ lại vào túi áo. Trong quá trình ngồi chơi, chị M cứ xem điện thoại nên  nói chị M bỏ điện thoại xuống, chị M bỏ điện thoại xuống thềm nhà gần nơi  đang ngồi.  nói chị M vào nhà rót cho  cốc nước, chị M vào nhà lấy nước,  lấy điện thoại di động Oppo của chị M bỏ vào túi áo mình và ra về.
Ngày 08/12/2020, chị M trình báo việc mất điện thoại và tố giác tội phạm đến Công an xã Quỳnh Hoa, huyện Quỳnh Lưu. Ngày 09/12/2020, Â bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, thu giữ 01 điện thoại di động.
Bản kết luận định giá tài sản số 490/HĐĐG ngày 16/12/2020 xác định: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3s màu đỏ có giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt 2.050.000đ (hai triệu không trăm năm mươi ngàn đồng). Bị hại, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận định giá tài sản.
Bản cáo trạng số 34/CT-VKS-HS ngày 20/01/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Lưu truy tố bị cáo Cao Văn  về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Cao Văn  từ 24-26 tháng tù.
Hình phạt bổ sung: không áp dụng.
Vật chứng: trả lại cho bị cáo Cao Văn  01 (một) điện thoại di động Nokia màu đen, đã cũ.
Trách nhiệm dân sự: không xem xét.
Án phí: buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo Cao Văn  khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, không tranh luận gì về tội danh. Lời nói sau cùng: Xin giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về nuôi con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳnh Lưu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Lưu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Cao Văn  khai nhận: vào lúc 21h ngày 07/12/2020, tại nhà chị Nguyễn Thị M ở thôn 5, xã Quỳnh Hoa, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, bị cáo đã lấy trộm 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3s của chị M. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án. Bị cáo nhận thức được hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản có giá trị 2.050.000đ (hai triệu không trăm năm mươi nghìn đồng) của chị M là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự. Phạm tội với lỗi cố ý. Như vậy, hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Lưu truy tố bị cáo theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Vụ án có tính chất nghiêm trọng. Bị cáo đã bị xét xử nhiều lần nhưng không lấy đó làm bài học rèn luyện bản thân, chứng tỏ bị cáo là người khó cải tạo nên cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly ra ngoài xã hội một thời gian mới có đủ điều kiện để giáo dục, cải tạo bị cáo, đồng thời răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên cũng cần xem xét bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng, có tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, phạm tội gây thiệt hại không lớn để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật như mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.
[4] Hình phạt bổ sung: Bị cáo vừa đi chấp hành hình phạt tù về, làm ruộng, thu nhập thấp nên không áp dụng hình phạt tiền bổ sung.
[5] Biện pháp tư pháp: Điện thoại di dộng nhãn hiệu OPPO A3s đã được trả lại cho chủ sở hữu chị Nguyễn Thị M, là đúng quy định của pháp luật. Điện thoại di động Nokia màu đen của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội, nên trả lại cho bị cáo.
[6] Trách nhiệm dân sự: Chị Nguyễn Thị M đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì nên không xem xét.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào: điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Cao Văn  02 (hai) năm tù. Về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 09/12/2020).
2. Biện pháp tư pháp: áp dụng Điều 46 Bộ luật Hình sự trả lại 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, máy cũ, model: TA-1174, số imeil: 353119112150900, số sim 0867553546 cho bị cáo Cao Văn  (tình trạng vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 22/01/2021 giữa Công an huyện Quỳnh Lưu và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Lưu).
3. Án phí: áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 buộc bị cáo Cao Văn  phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt, có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt, có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày, kể từ nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 23/2021/HS-ST ngày 04/02/2021 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 23/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/02/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về