TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG
BẢN ÁN 23/2021/HSPT NGÀY 19/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 09 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 24/2021/HSPT ngày 03/02/2021 đối với các bị cáo Bùi Trọng H. Do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự số 98/2020/HSST ngày 22/12/2020 Tòa án nhân dân huyện V.
Bị cáo có kháng cáo:
Bị cáo Bùi Trọng H (tên gọi khác: N), sinh năm 1992; tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: ấp R, xã T, huyện V, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn L (chết) và bà Võ Thị R; chưa có vợ con; anh chị em ruột: không có; Tiền án: bị Tòa án nhân dân quận N, Thành phố Cần Thơ xử phạt 05 năm tù về tội "Cướp giật tài sản" theo Bản án số 89/2015/HSST ngày 28/5/2015, bị cáo chấp hành xong ngày 22/9/2018; tiền sự: Không; nhân thân: Bị Tòa án nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù nhưng được trừ thời gian tạm giam còn lại phải chấp hành là 10 tháng 18 ngày tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm 09 tháng tù về tội "Cướp tài sản" theo Bản án số 110/2009/HSST ngày 17/4/2009. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/9/2020 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
1) Vụ thứ 1: Các bị cáo Trương Hoàng B, Nguyễn Văn T là bạn bè cùng sử dụng và nghiện chất ma túy với nhau. Ngày 24/7/2019, B và T bị Công an Phường 8, thành phố V xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản nhưng đến nay chưa nộp phạt số tiền nêu trên. Vào khoảng 01 giờ ngày 18/6/2020, bị cáo T điện thoại hẹn và rủ bị cáo B tìm tài sản lấy trộm bán để mua ma túy sử dụng thì B đồng ý. Cả hai cùng đi bộ đến Khu vượt lũ Phường 8 để tìm tài sản lấy trộm, khi đến trước nhà của ông Nguyễn Phan Hoàng A, địa chỉ số 58C3, đường Đ, Phường 8, thành phố V nhìn thấy có khu đất trống phía trước bên trái của nhà có vườn mai, bị cáo B đã dùng đèn pin rọi tìm gốc mai lớn nhất nên B và T cùng nhau nhổ cây mai (loại cây mai bông vàng) có hoành gốc 33cm, chiều cao 100cm và đem ra ngoài đường để cho T đứng giữ cây mai, còn B đi đến nhà của ông Lê Việt H, địa chỉ số 58D1, đường Đ, Phường 8, thành phố V để lấy trộm một chậu bằng sành có chiều cao 30cm, đường kính 45cm, thân chậu có hoa văn màu xanh và mang đến chỗ bị cáo T đang đứng đợi sau đó bị cáo B bỏ hết đất trong chậu kiểng ra và cùng bị cáo T mang về nhà của B để cất giấu. Sau khi phát hiện bị mất trộm tài sản, ông A và ông V đã đến Công an Phường 8 để trình báo việc mất trộm chậu sành và cây mai. Qua làm việc, bị cáo T và B đã thừa nhận việc thực hiện hành vi lấy trộm các tài sản trên.
Theo Kết luận định giá tài sản số 51/HĐĐG & TTHS ngày 17/7/2020 của Hội đồng định giá và tố tụng hình sự thành phố V đã kết luận: Cây mai bông vàng, hoành gốc 33cm, chiều cao 100cm trị giá 500.000 đồng và theo Kết luận định giá tài sản số 52/HĐĐG & TTHS ngày 17/7/2020 của Hội đồng định giá và tố tụng hình sự thành phố Vĩnh Long đã kết luận: Chậu sành có chiều cao 30cm, đường kính 45cm, thân chậu có hoa văn màu xanh trị giá 200.000 đồng.
2) Vụ thứ 2: Khoảng 13 giờ ngày 07/9/2020, bị cáo Bùi Trọng H đến nhà của bị cáo Trương Hoàng B tại số 134A/9, ấp P, xã H, huyện L, tỉnh Vĩnh Long nhậu cùng Trần Hoàng D. Đến khoảng 15 giờ 30 phút nhậu xong thì bị cáo H nói với bị cáo B "lúc này hỏa quá" kêu B tìm tài sản lấy trộm để mua ma túy sử dụng, B nói với H "lấy xe môtô biển số 72F8-6676 của B đem đi cầm" nhưng H không đồng ý và rủ B đi tìm tài sản lấy trộm thì B đồng ý. B điều khiển xe môtô biển số 72F8-6676 chở H đến ký túc xá của Trường Cao đẳng cộng đồng Vĩnh Long để tìm tài sản nhưng do ký túc xá đóng cửa không vào được nên B chở H đi ngang nhà xe của Trường Cao đẳng cộng đồng Vĩnh Long thì H kêu B dừng xe lại để H xuống đi bộ vào lấy trộm xe còn B đứng bên ngoài đợi, H đi bộ vào nhà xe nhìn thấy xe môtô Future biển số 64G1-077.47 của ông Nguyễn Thanh B không có ai trông coi nên đã lén lút dùng cây vít mang theo để mở khóa xe nhưng không mở được, H dẫn xe đi ra ngoài để B điều khiển xe môtô biển số 72F8-6676 đẩy xe H vừa trộm được đem đến nhà trọ của D để gửi. Sau khi phát hiện mất xe, ông B đã trình báo Công an Phường 8, thành phố V. Qua làm việc H và B đã thừa nhận hành vi lấy trộm tài sản trên.
Theo Kết luận định giá tài sản số 73/HĐĐG & TTHS ngày 09/9/2020 của Hội đồng định giá và tố tụng hình sự thành phố V đã kết luận: Xe môtô biển số 64G1-077.47 trị giá là 20.143.500 đồng.
Tại bản án sơ thẩm số: 98/2020/HSST ngaøy 22/12/2020 cuûa Toøa aùn nhaân daân thành phố V đã quyết định tuyên bố bị cáo Bùi Trọng H phạm tội Trộm cắp tài sản.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17 Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Bùi Trọng H 02 (Hai) năm tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo H được tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 08/9/2020.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn xử phạt bị cáo Trương Hoàng B 02 năm tù và bị cáo Nguyễn Văn T 09 tháng tù, cùng về tội Trộm cắp tài sản; quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 25/12/2020, bị cáo Bùi Trọng H có đơn kháng cáo với nội dung: xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung án sơ thẩm đã tuyên phạt bị cáo. Mục đích thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác để có tiền mua ma túy sử dụng. Bị cáo thấy mức án 02 năm tù là không nặng nhưng xin Hội đồng xét xử xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Kiểm sát viên nêu quan điểm giải quyết vụ án: Sau khi phân tích hành vi phạm tội, nguyên nhân, hậu quả mà bị cáo đã gây ra; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.
Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17 Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Trọng H mức án 02 năm tù.
Lời nói sau cùng của các bị cáo: xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi xét xử sơ thẩm, trong hạn luật định bị cáo Bùi Trọng H kháng cáo đối với bản án sơ thẩm xin giảm nhẹ hình phạt, nên được đưa ra xét xử theo trình tự phúc thẩm.
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo H giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Bị cáo thừa nhận vì cần tiền mua ma túy sử dụng, bị cáo rủ bị cáo Trương Hoàng B đi trộm tài sản của bị hại. Lợi dụng lúc sơ hở, bị cáo và bị cáo B lén lút lấy trộm một xe mô tô Future biển số 64G1-077.47 của ông Nguyễn Thanh B, tài sản được xác định giá trị là 20.143.500 đồng.
Trên cơ sở từ các lời khai của bị cáo H tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo và các bị cáo khác tại Cơ quan Điều tra, lời khai của các bị hại, kết luận định giá tài sản và các tài liệu, chứng cứ khác thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó, cấp sơ thẩm quy kết các bị cáo Bùi Trọng H phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[2] Xét hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật, đồng thời ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bản thân bị cáo là thanh niên, có sức khỏe và nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật, nhưng vì nghiện ma túy, cần tiền để mua ma túy sử dụng lại không có nghề nghiệp, dẫn đến việc bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, thể hiện sự xem thường pháp luật của bị cáo. Bị cáo có một tiền án về tội Cướp giật tài sản chưa được xóa án tích nay lại tái phạm nên cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết tăng nặng theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo là có căn cứ. Vì vậy, đối với bị cáo cần phải xử lý nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm về hành vi của bị cáo, nhằm giáo dục riêng bị cáo trở thành công dân hữu ích và phòng ngừa chung trong xã hội.
Xét án sơ thẩm khi quyết định hình phạt đã xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, mức án đối với bị cáo là không nặng, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới nên xét thấy kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo là không có căn cứ để chấp nhận.
[3] Kiểm sát viên đề nghị không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo là có cơ sở để chấp nhận.
[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Trọng H. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 98/2020/HSST ngaøy 22/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố V Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17 Điều 38 của Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Bùi Trọng H 02 (hai) năm tù về tội “trộm cắp tài sản”.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo H được tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 08/9/2020.
2.Về án phí: căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm b khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Bùi Trọng H phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 23/2021/HSPT ngày 19/03/2021 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 23/2021/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Vĩnh Long |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về