TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 23/2021/HS-PT NGÀY 04/02/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 04 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 329/2020/TLPT- HS ngày 22 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo Lê Đình T do có kháng cáo và kháng nghị đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 63/2020/HS-ST ngày 19 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Triệu Sơn.
- Bị cáo kháng cáo: Lê Đình T, sinh năm 1970; nơi cư trú: Thôn X, xã S, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Đình S và bà Lê Thị L; Có vợ là Lê Thị O và 02 con; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 10/7/2018, Tòa án nhân dân huyện Như Xuân xử phạt 06 tháng tù về tội đánh bạc, ngày11/10/2018 Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xét xử phúc thẩm xử 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng; bị cáo tại ngoại; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Cáo trạng và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 29 tháng 4 năm 2020, Tổ công tác Công an huyện Triệu Sơn phối hợp với Công an xã S bắt giữ tại nhà Lê Đình T, sinh năm 1970 ở thôn X, xã S, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa gồm có Lê Công L, Lê Công L1, Lê Sỹ Đ, Hà Văn T1 và Nguyễn Văn T2 đang đánh bạc trái phép, hình thức đánh bài ba cây ăn tiền; đồng thời thu giữ 01 chiếu nhựa; 01 bộ bài tú lơ khơ, thu giữ tại chiếu bạc số tiền 3.200.000đ. Các đối tượng thừa nhận đây là số tiền dùng đánh bạc; thu trên người Lê Đình T số tiền 800.000đ.
Quá trình xác minh các đối tượng thừa nhận là vào khoảng 10 giờ, ngày 29/4/2020 các đối tượng L, L1, Đ, T1, T2 đến nhà Lê Đình T hỏi mượn địa điểm đánh bạc thì được T đồng ý. Trong nhà T đã có sẵn chiếu và bài nên các đối tượng chỉ việc chơi bài và thống nhất với nhau, người nào được “Mỳ” thì cắt ra 50.000đ để đưa cho chủ nhà, cắt được 200.000đ nhưng chưa đưa cho chủ nhà thì bị bắt.
Bản án số 63/2020/HS-ST ngày 19 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa đã QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Ðiều 321; điểm s khoản 1 Ðiều 51; Ðiều 38 Bộ luật hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Lê Đình T phạm tội “Ðánh bạc”.
Xử phạt: Bị cáo Lê Đình T 12 tháng tù.Thời hạn chấp hành án kể từ ngày bắt giam thi hành án.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 01/12/2020, bị cáo Lê Đình T kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm xem xét giảm hình phạt cho bị cáo.
Ngày 02/12/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Sơn kháng nghị phúc thẩm đề nghị cấp phúc thẩm căn cứ khoản 1 Điều 357 BLTTHS sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm hình phạt đối với bị cáo T.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T và đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung kháng cáo và kháng nghị.
Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 BLTTHS. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Đình T. Giảm cho bị cáo từ 04 đến 06 tháng tù. Sửa bản án hình sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận:
Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 29 tháng 4 năm 2020, Công an huyện Triệu Sơn bắt quả tang Lê Đình T là đã cho các đối tượng Lê Công L, Lê Công L1, Lê Sỹ Đ, Hà Văn T1 và Nguyễn Văn T2 mượn nhà của mình để đánh bài với hình thức chơi bài ba cây ăn tiền; các đối tượng tự thống nhất “mỳ” cắt ra 50.000đ để đưa cho chủ nhà và cắt được 200.000đ, nhưng chưa đưa cho chủ nhà thì đã bị bắt; tổng số tiền thu giữ trên chiếu là 3.200.000đ.
Mặc dù số tiền thu giữ trên chiếu bạc là 3.200.000đ, nhưng do bị cáo có một tiền án về tội đánh bạc chưa được xóa án tích nay lại phạm tội đánh bạc; đây là tình tiết định tội đối với bị cáo. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo Lê Đình T phạm tội "Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS là đúng người, đúng tội.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Lê Đình T thừa nhận hành vi phạm tội, đồng ý với tội danh mà bản án sơ thẩm đã tuyên và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
[2]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo và kháng nghị của Viện kiểm sát:
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an chung. Khi quyết định hình phạt án sơ thẩm đã xem xét đến tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS để xét xử đối với bị cáo.
Tình tiết giảm nhẹ TNHS đã được áp dụng: Bị cáo thành khẩn khai báo; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Trong giai đoạn phúc thẩm: bị cáo có đơn trình bày điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo đặc biệt khó khăn, thuộc hộ nghèo, bản thân đang có bệnh Ung thư tuyến giáp có xác nhận của chính quyền địa phương.
Xét thấy ở cấp phúc thẩm bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS, điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo đặc biệt khó khăn, bản thân đang có bệnh Ung thư tuyến giáp. Vì vậy có căn cứ để chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát và kháng cáo của bị cáo, giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo tốt sớm trở về với gia đình và xã hội.
[3]. Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết kháng cáo, kháng nghị.
[4]. Về án phí: Kháng cáo của bị cáo T được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí HSPT; căn cứ điểm d khoản 2 Điều 23 NQ 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự. Điểm d khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
1. Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Sơn và kháng cáo của bị cáo Lê Đình T.
Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 63/2020/HS-ST ngày 19 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa về hình phạt đối với bị cáo Lê Đình T.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Lê Đình T 06 (sáu) tháng tù về tội: “Đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
2. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết kháng cáo, kháng nghị.
3. Về án phí: Bị cáo Lê Đình T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 23/2021/HS-PT ngày 04/02/2021 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 23/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/02/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về