Bản án 23/2021/HNGĐ-ST ngày 21/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ CÔNG TÂY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 23/2021/HNGĐ-ST NGÀY 21/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 21 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 333/2020/TLST- HNGĐ ngày 19 tháng 10 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 151/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 122/2020/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kiều D, sinh năm 1982 (xin vắng mặt);

Địa chỉ: Ấp B, xã B, huyện G, tỉnh Tiền Giang.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Thành T, sinh năm 1982 (vắng mặt); Địa chỉ: Ấp T, xã Đ, huyện G, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn ly hôn ngày 19/10/2020 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kiều D trình bày:

Chị và anh T bắt đầu chung sống từ năm 2013, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ theo giấy chứng nhận kết hôn số 22/2014 ngày 27/02/2014, hôn nhân do mai mối. Sau khi cưới, vợ chồng chung sống hạnh phúc tại nhà cha mẹ chị thuộc ấp B, xã B. Đến tháng 10/2014, chị sinh con thì giữa vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống do anh T không có trách nhiệm với vợ con, không quan tâm chăm sóc gia đình. Chị đã cố gắng hàn gắn tình cảm nhiều lần nhưng không được. Từ cuối năm 2014, anh T bỏ đi và vợ chồng đã sống ly thân đến nay. Nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa nên chị yêu cầu được ly hôn với anh T.

Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc Thảo N, sinh ngày 13/10/2014, hiện đang sống chung với chị. Ly hôn, chị yêu cầu được trược tiếp nuôi dưỡng con chung và yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Ngoài ra không còn yêu cầu gì khác.

* Bị đơn anh Nguyễn Thành T đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật, nhưng anh T không đến Tòa án và cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Chị Dân yêu cầu ly hôn với anh T và yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung nên đây là tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

Anh T là bị đơn có nơi cư trú tại ấp T, xã Đ, huyện G nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang theo điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng:

Chị D có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa; anh T đã được triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị D, anh T.

[3] Về quan hệ hôn nhân:

Chị D và anh T chung sống trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân dân xã Đ cấp giấy chứng nhận kết hôn số 22/2014 ngày 27/02/2014 nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Chị D trình bày trong quá trình chung sống, giữa chị và anh T xãy ra mâu thuẫn kéo dài không tự hàn gắn được và anh chị đã sống ly thân từ năm 2014 đến nay. Theo xác nhận của chính quyền địa phương ngày 18/11/2020 (BL: 21) cũng thể hiện mâu thuẫn giữa chị D và anh T là có thật. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập để tiến hành hòa giải nhằm hàn gắn tình cảm giữa hai bên nhưng anh T vẫn vắng mặt không lý do, điều đó chứng tỏ anh T không quan tâm đến việc hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tại khoản 1 Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Do vậy, cần xác định tình trạng mâu thuẫn giữa chị D và anh T đã trầm trọng, hạnh phúc hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị D là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con:

[4.1] Chị D và anh T có 01 con chung chưa thành niên tên Nguyễn Ngọc Thảo N hiện đang sống chung với chị D.

Chị D yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N. Tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con; …”. Do anh T vắng mặt nên không có sự thỏa thuận với chị Dân về người trực tiếp nuôi con chung. Theo xác nhận của chính quyền địa phương ngày 18/11/2020 nêu trên thì cháu N hiện đang sống chung với chị D. Để tạo điều kiện thuận lợi, đảm bảo sự phát triển bình thường cho cháu nên Hội đồng xét xử giao cháu N cho chị D được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng. Nếu sau này anh T có yêu cầu về con chung sẽ được xem xét giải quyết bằng vụ án khác.

[4.2 ] Chị D yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

Tại Khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”. Do vậy, yêu cầu này của chị D là phù hợp với quy định của pháp luật nhằm tạo điều kiện về vật chất để cháu N được chăm sóc tốt hơn nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu N hàng tháng; mức cấp dưỡng mỗi tháng bằng ½ mức lương tối thiểu do nhà nước quy định; thời gian thực hiện từ khi án có hiệu lực pháp luật đến khi cháu N đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.

[5] Về chia tài sản, nợ chung:

Chị Dân và anh T không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. [6] Về án phí:

Chị D là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên phải chịu án phí không có giá ngạch đối với yêu cầu ly hôn theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 và tiểu mục 1.1 mục 1 phần II (Danh mục án phí) Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con phải chịu án phí không có giá ngạch đối với nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định tại điểm a khoản 6 Điều 27 và tiểu mục 1.1 mục 1 phần II (Danh mục án phí) Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các điều 56, 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Kiều D.

1.1 Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Kiều D được ly hôn với anh Nguyễn Thành T.

1.2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc Thảo N, sinh ngày 13/10/2014 cho chị Nguyễn Thị Kiều D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Anh Nguyễn Thành T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Ngọc Thảo N hàng tháng, mức cấp dưỡng mỗi tháng bằng ½ mức lương tối thiểu do nhà nước quy định (thời điểm giải quyết tương đương 745.000 đồng/tháng), thời gian thực hiện từ khi án có hiệu lực pháp luật đến khi cháu N đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.

Anh Nguyễn Thành T có quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai có quyền cản trở.

2. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Kiều D phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0016893 ngày 19/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Công Tây nên chị D đã nộp xong án phí.

Anh Nguyễn Thành T phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về nghĩa vụ thi hành án:

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan Thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) và kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt bản án hoặc niêm yết công khai bản án, chị Nguyễn Thị Kiều D và anh Nguyễn Thành T được quyền kháng cáo bản án đến Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

292
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2021/HNGĐ-ST ngày 21/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:23/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Công Tây - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về