Bản án 23/2020/HS-ST ngày 20/03/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MÓNG CÁI, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 23/2020/HS-ST NGÀY 20/03/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 3 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 21/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2020/ QĐXXST-HS, ngày 05 tháng 3 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Công Tr (không có tên gọi khác), sinh ngày 22 tháng 11 năm 1997 tại Móng Cái, Quảng Ninh. Nơi thường trú: Thôn X, xã H, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Công Thanh, sinh năm: 1976 và bà: Phạm Thị Hường, sinh năm: 1978; vợ, con: chưa; tiền án, tiền sự: chưa; Bị bắt quả tang ngày 03/12/2019, hiện tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến: Ông Phạm Tiến X, sinh năm: 1949; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Y, xã H, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 01/12/2019, Nguyễn Công Tr đang ngồi chơi tại quán nước gần khu công nghiệp H, thành phố M thì có một nam thanh niên (không rõ lai lịch, địa chỉ) đến mời chào và bán cho Tr 01 (một) túi ma túy đá với giá 1.100.000đ (một triệu một trăm nghìn đồng), Tr đồng ý mua, mục đích để sử dụng cho bản thân. Mua được ma túy, Tr đem về nhà lấy một ít ra sử dụng, số ma túy còn lại Tr chia ra 02 (hai) túi nilon nhỏ cất giấu để sử dụng dần. Đến khoảng 13 giờ ngày 03/12/2019, Tr cầm theo 02 (hai) túi ma túy trên đến quán điện tử ở thôn Y, xã H, thành phố M chơi, thì bị tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Móng Cái kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ của Tr 02 (hai) túi nilon, kích thước khoảng (2,5x2,5) cm (kí hiệu M1) và (2,5x01) cm (kí hiệu M2) bên trong đều chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy, 01 (một) chiếc điện thoại di động OPPO đã qua sử dụng.

Tại bản kết luận giám định số 947/GĐMT ngày 09/12/2019, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Mẫu vật ký hiệu M1, M2 gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine; Tổng khối lượng 1,007 gam (một phẩy không không bảy gam).

Hoàn lại đối tượng sau giám định, mẫu vật trong niêm phong số 947/GĐMT, có tổng khối lượng là 0,87 gam.

Người chứng kiến, ông Phạm Tiến X có lời khai trong quá trình điều tra thể hiện nội dung: Khoảng 13 giờ ngày 03/12/2019, khi ông đang trên đường đi bộ về nhà ngang qua cửa quán in-tơ-nét ở mặt đường Quốc lộ 18A thuộc thôn Y, xã H, thành phố M thì thấy có lực lượng Công an làm nhiệm vụ, ông chứng kiến một nam thanh niên đứng tại cửa quán, thả từ tay trái của mình xuống đất nơi anh ta đứng 02 túi nilon. Cán bộ Công an khống chế giữ tay người này và thu giữ 02 túi nilon đều chứa chất tinh thể màu trắng. Thanh niên đó khai tên là Nguyễn Công Tr và khai chất tinh thể màu trắng là ma túy đá để sử dụng cho bản thân, ngoài ra Tr còn bị thu giữ 01 điện thoại di động OPPO, màu bạc.

Tại Bản cáo trạng số 28/CT-VKS-MC, ngày 19/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái đã truy tố bị cáo Nguyễn Công Tr về tôi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố đã giữ nguyên quyết định truy tố và luận tội đối với bị cáo; sau khi phân tích nội dung vụ án, tính chất, mức đô nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, đã đề nghị với Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

- Xử phạt: bị cáo Nguyễn Công Tr từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt 03/12/2019.

*)Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

*) Về xử lý vât chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn lại sau giám định, túi nilon đựng ma túy và vỏ bao gói được niêm phong trong phong bì ghi số 947/GĐMT của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh;

- Trả lại Nguyễn Công Tr: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu bạc, máy cũ đã qua sử dụng;

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và không tranh luận với lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Móng Cái, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Nhận định của Hội đồng xét xử về những chứng cứ xác định bị cáo có tội: Đánh giá nội dung Biên bản bắt người phạm tội quả tang, các lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, lời khai của người chứng kiến, trên cơ sở kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận: Hồi 13 giờ 40 phút ngày 03/12/2019, tại khu vực quán in-tơ-nét thuộc thôn Y, xã H, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh, Nguyễn Công Tr đã có hành vi cất giấu trái phép 1,007 gam ma túy loại Methamphetamine mục đích để sử dụng cho bản thân, thì bị phát hiện bắt quả tang.

Các chứng cứ buộc tội của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi đã thực hiện như nội dung Bản cáo trạng.

Bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi do lỗi cố ý, xâm phạm đến chính sách của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Do đó, hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Công Tr đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bô luâ t Hình sự.Như vâ y, quan điểm truy tố và luận tội của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái là có căn cứ pháp lý.

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”.

[3] Xét tính chất và hành vi phạm tô i của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hô i, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự, an ninh xã hội ở địa phương. Đây còn là nguyên nhân gây các loại tội phạm khác, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Mặc dù nhận thức rõ tác hại của ma túy, nhưng để thỏa mãn nhu cầu nghiê n ma túy của bản thân bị cáo đã cố ý thực hiê n hành vi nguy hiểm cho xã hô i, vì vâ y cần xử lý nghiêm, mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, phòng ngừa chung.

[4] Về áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hình phạt bổ sung:

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra bị cáo khai báo thành khẩn và tại phiên tòa bị cáo tiếp tục thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là đối tượng không có nghề nghiệp và thu nhập không ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Sau khi xem xét, đánh giá tính chất của vụ án, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết ấn định mức hình phạt nghiêm ở trong khung đã truy tố đối với bị cáo và cách ly ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo thành công dân có ích cho xã hội và gia đình.

[6] Về vật chứng và xử lý vật chứng:

- Số ma túy hoàn lại sau giám định, túi nilon và toàn bộ vỏ bao gói đựng ma túy được niêm phong trong phong bì ghi số 947/GĐMT của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh được niêm phong theo đúng quy định của pháp luật, đây là những vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, là công cụ, phương tiện phạm tội, không có giá trị, do đó căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu, tiêu hủy.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu bạc, bên trong lắp 01 (một) sim, máy đã qua sử dụng, là tài sản của bị cáo không dùng liên lạc để mua ma túy, không liên quan đến viê c phạm tô i, do đó căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần trả lại cho bị cáo Nguyễn Công Tr.

[7] Về nghĩa vụ chịu án phí hình sự sơ thẩm: Cần buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/12016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luâ t.

[9] Đối với người thanh niên bán ma túy cho Nguyễn Công Tr, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không đủ cơ sở để điều tra, xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

I. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Công Tr (không có tên gọi khác) Phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Công Tr 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/12/2019.

II. Về vật chứng và xử lý vật chứng:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

1. Tịch thu tiêu hủy: 0,87g ma túy loại Methamphetamine hoàn lại sau giám định được chứa trong 01 (một) phong bì của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh được niêm phong theo đúng quy định của pháp luật. Mặt trước phong bì ghi: “Số 947/GĐMT mẫu vật hoàn lại đính kèm theo kết luận giám định số 947/GĐMT ngày 09/12/2019”;

2. Trả lại bị cáo Nguyễn Công Tr: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu bạc, bên trong lắp 01 (một) sim, máy cũ đã qua sử dụng;

Số vật chứng trên theo Biên bản giao nhận vật chứng số 52/2020/THA, ngày 20/02/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Móng Cái.

III. Về nghĩa vụ chịu án phí hình sự sơ thẩm:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/12016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buô c bị cáo Nguyễn Công Tr phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, số tiền là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

IV. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 331 và khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2020/HS-ST ngày 20/03/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:23/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Móng Cái - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về