Bản án 23/2019/HS-ST ngày 14/01/2020 về tội cướp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 23/2019/HS-ST NGÀY 14/01/2020 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 11/2019/TLST-HS ngày 23 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo:

Trnh Tứ H, sinh năm 1978 tại Thanh Hóa, Nơi ĐKHKTT: đường Lê Thánh T, phường Trung S, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Tứ T và bà Vũ Thị K (đã chết); có vợ là Lê Thị H và 02 con; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/9/2019 đến ngày 25/9/2019 chuyển tạm giam. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Chị Hoàng Thị H - Sinh năm 1980.

Địa chỉ: Xóm 2, xã Xuân C, huyện Thọ X, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tối ngày 18/9/2019, Trịnh Tứ H gọi điện thoại cho chị Hoàng Thị H, sinh năm 1980 ở xóm 2, xã Xuân C, huyện Thọ X, tỉnh Thanh Hóa hẹn chị H đến nhà nghỉ để ngủ qua đêm, chị H đồng ý. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày H đến nhà nghỉ Quang L ở 10/2 Trịnh Thị Ngọc L, phường Lam S, thành phố Thanh Hóa để thuê phòng số 202. Đến khoảng 21 giờ thì chị Hoa lên phòng 202 sau đó nằm ngủ cùng H. Khoảng 23 giờ khi chị H đang ngủ thì H mở túi sách của chị H để lấy tiền. Lúc này chị H tỉnh dậy nhìn thấy H đang lấy tài của mình nên giật túi lại từ tay H. Thấy vậy H ngồi lên người chị H rồi lấy con dao bấm chuẩn bị sẵn từ trước để trong túi sách của mình ra dơ lên dọa chị H và nói “chi anh xin ít tiền”. Chị H lo sợ nên lấy trong túi ra 510.000đ đưa cho H, H cầm tiền cất vào túi áo. Lúc này trong túi của chị H rơi ra 04 chiếc điện thoại. H yêu cầu chị H mở mật khẩu điện thoại. Do lo sợ ảnh hưởng đến tính mạng nên chị H đã mở mật khẩu một điện thoại Iphone6 màu xám bạc rồi đưa cho H. Sau khi lấy được điện thoại, H dùng dao bấm cắt khăn tắm ra mục đích để buộc tay và chân chị H, không cho chị H chạy thoát. Sau khi H buộc được tay chị a thì chị H vùng chạy thoát được và chạy vào phòng tắm đóng cửa lại. H cầm tiền và điện thoại bỏ đi ra ngoài và đến Công viên Hội An ngủ. Sáng ngày 19/9/2019, H đi đến cửa hàng điện thoại trên đường Nguyễn T, thành phố Thanh Hóa mua 01 chiếc sạc điện thoại trị giá 100.000đ và tiêu sài cá nhân hết 135.000đ rồi Hiền bắt xe về phòng trọ ở thị trấn Sao V, huyện Thọ X, tỉnh Thanh Hóa. Đến 17 giờ ngày 19/9/2019, H đến cơ quan công an đầu thú, giao nộp 01 con dao bấm, 01 điện thoại di động Iphone 6 màu xám bạc và 275.000đ.

Sau khi sự việc xảy ra, chị H đến Công an phường Lam S trình báo sự việc. Tại cơ quan điều tra chị H khai báo chị bị H chiếm đoạt 01 điện thoại iphone 6 và 4.670.000đ.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 250/KL-HĐ ĐGT ngày 24/9/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự đã kết luận chiếc điện thoại Iphone 6 có giá trị 3.000.000đ.

Ngày 27/9/2019, Cơ quan điều tra công an thành phố Thanh Hóa đã trả lại chiếc điện thoại Iphone 6 cho chị H.

Tại bản cáo trạng số 09/CT-VKS-KT ngày 18/12/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hoá đã truy tố bị cáo Trịnh Tứ H về tội: “Cướp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 168 của Bộ luật hình sự.

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, chị Lê Thị H là vợ bị cáo H đã tự nguyện bồi thường cho chị H số tiền 235.000đ thay cho bị cáo.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như bản cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: khoản 1 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 36 tháng tù đến 42 tháng tù.

Xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy một con dao bấm, trả lại cho chị H số tiền 275.000đ.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung truy tố của cáo trạng và không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức hình phạt 42 tháng tù và buộc bị cáo phải bồi thường cho chị số tiền 4.700.000đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa hôm nay Trịnh Tứ H khai nhận: Khoảng 23 giờ 40 phút ngày 18/9/2019, tại phòng 202, nhà nghỉ Quang L ở địa chỉ 10/02 Trịnh Thị Ngọc L, phường Lam S, thành phố Thanh Hóa, Trịnh Tứ H đã dùng dao bấm đe dọa và chiếm đoạt của chị Hoàng Thị H ở xóm 2, xã Xuân C, huyện Thọ X, tỉnh Thanh Hóa một chiếc điện thoại Iphone 6 trị giá 3.000.000đ và 510.000đ tiền mặt. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 3.510.000đ.

Quá trình điều tra bị hại khai bị cáo chiếm đoạt của bị hại số tiền 4.670.000đ, tại phiên tòa bị hại lại khai bị cáo chiếm đoạt của bị hại số tiền 4.700.000đ, tuy nhiên tại phiên tòa cũng như tại giai đoạn điều tra bị hại không xuất trình được tài liệu chứng cứ nào chứng minh bị cáo chiếm đoạt số tiền 4.700.000đ hay 4.670.000đ của bị hại và cũng không có ai chứng kiến việc bị hại có số tiền 4.700.000đ hay 4.670.000đ.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo, bị hại tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét, thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của bị cáo có đủ dấu hiệu cấu thành tội “Cướp tài sản”, tội danh và khung hình phạt được qui định tại khoản 1 Điều 168 của Bộ luật hình sự như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự liều lĩnh, coi thường pháp luật của bị cáo, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng xấu đến an toàn xã hội. Bị cáo là người đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý với mục đích tư lợi, vì vậy cần phải xử lý nghiêm.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo; vợ bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại thay cho bị cáo, sau khi phạm tội bị cáo đã đến cơ quan công an đầu thú. Vì vậy nên áp dụng các quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian như vậy mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.

[5]. Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền 4.700.000đ. Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, không có căn cứ chứng minh bị cáo đã chiếm đoạt của bị hại số tiền 4.700.000đ. Vì vậy yêu cầu của bị hại không có cơ sở để chấp nhận.

Số tiền 510.000đ bị cáo chiếm đoạt của bị hại thì bị cáo đã nộp tại cơ quan công an 275.000đ và vợ bị cáo đã bồi thường cho bị hại 235.000đ vì vậy bị hại được nhận lại số tiền 275.000đ.

Chiếc điện thoại Iphone 6 bị cáo chiếm đoạt đã được trả lại cho bị hại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về xử lý vật chứng: Đối với 01 con dao bấm dài khoảng 20cm, cán màu đỏ vân gỗ, lưỡi dao dài khoảng 07cm, sắc nhọn và một mảnh vải màu trắng, hoa văn màu xanh, kích thước (7x10)cm, đã qua sử dụng là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 khoản 47 và khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Trả lại cho chị H số tiền 275.000đ theo khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và khoản 1, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7]. Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 168, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14.

Tuyên bố: Bị cáo Trịnh Tứ H phạm tội “Cướp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Trịnh Tứ H 36 (ba sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 19/9/2019.

- Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 01 con dao bấm dài khoảng 20cm, cán màu đỏ vân gỗ, lưỡi dao dài khoảng 07cm, sắc nhọn và một mảnh vải màu trắng, hoa văn màu xanh, kích thước (7x10)cm, đã qua sử dụng;

Trả lại cho chị Hoàng Thị H số tiền 275.000đ.

Tất cả các vật chứng nêu trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng số 61/THA ngày 13/01/2020 giữa Công an thành phố Thanh Hóa với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa.

- Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7,9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

327
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2019/HS-ST ngày 14/01/2020 về tội cướp tài sản

Số hiệu:23/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về