Bản án 23/2019/HNGĐ-ST ngày 30/10/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ THIỆN, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 23/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 30 tháng 10 năm 2019, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 81/2019/TLST-HNGĐ ngày 30/7/2019, về việc “Ly hôn, nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2019/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 9 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 22/2019/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Bùi Thị K L, sinh năm 1990

Địa chỉ: Tổ dân phố S, thị trấn Ph Th, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. (Có mặt)

 Bị đơn: Anh Nguyễn S, sinh năm 1988

Địa chỉ: Tổ dân phố S, thị trấn Ph Th, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai (Vắng mặt lần 2)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 26 tháng 7 năm 2019, bản tự khai cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Bùi Thị Kim L trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn S có thời gian tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn vào ngày 20/6/2008 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Ph Th, huyện Phú Thiện. Cuộc sống chung thời gian đầu có hạnh phúc, nhưng chỉ được một thời gian ngắn thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh Sang cờ bạc, ăn chơi, rồi hành hạ, đánh đập chị nhiều lần. Mâu thuẫn của vợ chồng kéo dài suốt 10 năm nên chị không thể tiếp tục duy trì cuộc sống hôn nhân trong tình trạng bạo lực bạo lực như vậy được nữa. Nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Nguyễn S.

Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc Tr M, sinh ngày 12/6/2009 chị L yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu anh S cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Nguyễn S: Quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật nhưng anh S vẫn không có mặt tại Tòa án làm việc và không nộp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện cùng các tài liệu, chứng cứ kèm theo.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai phát biểu quan điểm về tố tụng:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân theo đúng quy định tại các Điều 28, 35, 39, 68, 93, 97, 195, 196, 197, 203, 205, 208, 209; 220 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 28, 35 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Bùi Thị Kim L được ly hôn với anh Nguyễn S

Về con chung: Giao 01 con chung cho chị Loan nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng: Tòa án đã tiến hành xác minh anh Nguyễn S đã đi khỏi nơi cư trú không rõ thời điểm trở về nên không thể tống đạt trực tiếp được, Tòa án đã tống đạt niêm yêt các văn bản tố tụng của Tòa án theo đúng quy định của pháp luật nhưng anh S vẫn không đến Tòa án làm việc cũng như phiên tòa lần thứ nhất phải hoãn; mở phiên tòa xét xử lần thứ hai theo quy định tại Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về hôn nhân: Chị Bùi Thị Kim L và anh Nguyễn S kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Ph Th, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai vào ngày 23/6/2008. Vậy quan hệ hôn nhân của chị L, anh S là hợp pháp.

Quá trình chung sống, mâu thuẫn giữa chị L, anh S diễn ra thường xuyên, trầm trọng và kéo dài, nguyên nhân là do anh Nguyễn S thường xuyên cờ bạc rồi đánh đập, hành hạ chị L. Do không chịu đựng được cảnh bạo lực gia đình chị L và anh S đã sống ly thân trong thời gian dài. Xét thấy cuộc sống chung bạo lực gia đình, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài nên chị L yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh S là có cơ sở.

Về con chung: Có 01 con chung tên là Nguyễn Ngọc Tr M, sinh ngày 12/6/2009. Hiện nay con chung đang sống cùng chị L có nơi cư trú và có thu nhập ổn định đảm bảo điều kiện tốt nhất để nuôi con chung, còn anh S thường xuyên đi khỏi nơi cư trú không rõ thời điểm trở về. Căn cứ vào Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình cần giao con chung cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi phù hợp với nguyện vọng của con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con: Không xem xét do đương sự không yêu cầu.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Chị Bùi Thị Kim Loan phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 28, 35, 39, 147, 170; khoản 2 Điều 227; Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng khoản 1 Điều 51; Điều 53; Điều 54; Điều 56; Điều 57; Điều 81, 82,83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Bùi Thị Kim L

Về hôn nhân: Chị Bùi Thị Kim Loan được ly hôn với anh Nguyễn S Về con chung: Giao 01 con chung là Nguyễn Ngọc Tr M, sinh ngày 12/6/2009 cho chị Bùi Thị Kim L là người trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục kể từ ngày hôm nay( 30/10/2019) cho đến khi các con thành niên và tự lập được hoặc đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và tài sản để tự nuôi mình. Anh Nguyễn S không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Vì lợi ích của con chung các đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và áp dụng việc cấp dưỡng nuôi con chung; anh Nguyễn S có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở thực hiện quyền này.

Về án phí: Chị Bùi Thị Kim L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đồng, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đồng, theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0006356 ngày 30 tháng 7 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. Chị L đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (30/10/2019), nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án. Riêng bị đơn anh Nguyễn S vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yêt để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2019/HNGĐ-ST ngày 30/10/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:23/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Thiện - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về