Bản án 23/2019/HNGĐ-ST ngày 27/05/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỀN HẢI, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 23/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/05/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 22 tháng 5 năm 2019 và ngày 27 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 34/2019/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 3 năm 2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 16/2019/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số: 17/2019/QĐST-HNGĐ ngày 08/5/2019, Thông báo về việc thời gian tuyên án số 02/2019 ngày 22/5/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị O, sinh năm 1994

- Bị đơn: Anh Trần Văn H, sinh năm 1989.

Đều nơi cư trú: Thôn H, xã N, huyện T, tỉnh Thái Bình. (Chị O có mặt, anh H vắng mặt tại phiên Tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 25/01/2019 cũng như tại bản tự khai và tại phiên Tòa hôm nay nguyên đơn là chị Nguyễn Thị O trình bày: Chị và anh Trần Văn H kết hôn với nhau ngày 06/4/2013 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã Nam Thinh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Nguyên nhân mâu thuẫn là do sau khi chị lấy anh H thì chị mới biết anh H làm kinh tế không có hiệu quả nhưng vì chị đã có thai với anh H nên chị cố gắng chịu đựng bằng cách giúp đỡ anh H là cắm nhà và xe của bố mẹ chị để anh H trả nợ, chị đã bảo ban anh H nhiều lần nhưng anh H vẫn chứng nào tật ấy, thường xuyên đi vay nợ nhiều nơi tuy chị đã khuyên bảo anh H rất nhiều lần nhưng anh H vẫn cố tình không nghe nên dẫn đến việc vợ chồng chị thường xuyên cãi nhau và anh H đã có hành vi tát chị rất nhiều lần chị không chịu nổi đã sống ly thân với anh H từ tháng 02/2018 đến nay là hơn một năm. Trong thời gian chị sinh con anh H không có trách nhiệm với chị và con, chị với anh H sống với nhau như người ngoài nên chị xác định không thể tiếp tục chung sống cùng anh H nữa chị xác định không còn tình cảm với anh H, chị kiên quyết xin ly hôn anh H.

Về con chung: Vợ chồng chị có một con chung là Trần Uy D, sinh ngày 28/3/2014. Hiện nay cháu D đang ở với chị. Quan điểm của chị xin nuôi con D và không yâu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Trần Văn H trình bày: Anh hoàn toàn đồng ý với chị O về điều kiện và hoàn cảnh kết hôn theo anh mâu thuẫn vợ chồng là do áp lực kinh tế gia đình khó khăn nên dẫn đến việc vợ chồng thường xuyên cãi nhau từ thời điểm tháng 6/2018 đến nay. Vợ chồng anh đã sống ly thân từ tháng 6/2018 đến nay. Quan điểm của anh xin đoàn tụ vợ chồng để nuôi dạy con chung.

Về con chung: Vợ chồng anh có một con chung là Trần Uy D, sinh ngày 28/3/2014. Hiện nay cháu 5 tuổi đang ở với chị O. Quan điểm của anh muốn vợ chồng về đoàn tụ.

Về tài sản và nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Trần Văn H đã được Tòa án giao hợp lệ thông báo về việc Tòa án thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và H giải và quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên Tòa, Thông báo về thời gian nghị án nhưng anh H không có mặt tại phiên Tòa.

Tại phiên Tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị O được ly hôn anh Trần Văn H.

Về quan hệ con chung : Vợ chồng chị O và anh H có một con chung là Trần Uy Dũng, sinh ngày 28/3/2014.Giao con Trần Uy D cho chị Nguyễn Thị O trực tiếp nuôi dưỡng, chị O không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về quan hệ tài sản và nợ chung: Không phải giải quyết.Về án phí: Chị Nguyễn Thị O phải nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Toà.

Về thủ tục tố tụng: Anh Trần Văn H là bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt nên căn cứ vào khoản 3 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt anh Trần Văn H.

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị O và anh Trần Văn H có đăng ký kết hôn năm 2013, tại Ủy ban nhân dân xã Nam Thịnh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống giữa chị O và anh H không có sự tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau cùng nhau chia sẻ, thực hiện những công việc trong gia đình. Các bên đều bất đồng về suy nghĩ cũng như lối sống, hành động đều trái ngược nhau, do đó hai bên không quan tâm, không có trách nhiệm và nghĩa vụ với nhau. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 02/2018 đến nay là hơn một năm. Anh H không có mặt tại phiên Tòa chứng tỏ anh H bỏ mặc, không quan tâm đến chị O thể hiện không thiện chí trong việc cải thiện tình trạng hôn nhân đang mâu thuẫn trong khi chị O xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh H, kiên quyết xin ly hôn anh H. Như vậy, tình trạng hôn nhân giữa chị O và anh H đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị O, xử cho chị Nguyễn Thị O được ly hôn anh Trần Văn H.

[2]. Về quan hệ con chung: Chị O và anh H có một con chung là Trần Uy D, sinh 28/3/2014 hiện nay cháu D 5 tuổi đang ở với chị O để ổn định cuộc sống cho cháu D, hơn nữa cháu D đang còn nhỏ, cần sự chăm sóc của người mẹ và chị O hiện đang có công việc ổn định và thu nhập đảm bảo để nuôi con nên cần giao cháu D cho chị O trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật.

[3]. Về quan hệ tài sản và nợ chung: Các đương sự đều không yêu cầu nên Tòa án không phải giải quyết.

[4]. Về án phí: Chị O phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[5]. Về quyền kháng cáo: Chị O và anh H đều có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 điều 56, điều 81, điều 82, điều 83, điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Khoản 3 điều 228, điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016 án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị O được ly hôn anh Trần Văn H.

2. Về quan hệ con chung: Xử giao con Trần Uy D, sinh ngày 28/3/2014 cho chị Nguyễn Thị O trực tiếp nuôi dưỡng. Chị O không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị O, anh H có quyền thăm nom con chung. Chị O, anh H có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con khi có yêu cầu.

3. Về quan hệ tài sản và nợ chung: Các đương sự đều không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị O phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Chị O đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai số 0009494 ngày 05 tháng 3 năm 2019 của chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Chuyển số tiền chị O đã nộp tạm ứng 300.000 đồng sang tiền án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị O có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2019/HNGĐ-ST ngày 27/05/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:23/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về