Bản án 231/2019/HS-PT ngày 23/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 231/2019/HS-PT NGÀY 23/04/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 704/2018/TLPT-HS ngày 13 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo Nguyễn Đình S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 54/2018/HS-ST ngày 07/08/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.

* Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đình S, sinh năm: 1987; giới tính: Nam. Nơi cư trú: Xóm 2, xã AT, huyện AL, TP Hải Phòng; chỗ ở: Ngõ 61 đường AD 1, thôn AD, xã AĐ, huyện AD, thành phố Hải Phòng; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Lái xe taxi; con ông Nguyễn Đình L và bà Hoàng Thị T; có vợ là Trần Thị Sáu T; có 01 con, sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa từ ngày 21/4/2017 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Lương Quang T - Văn phòng luật sư An Thái, thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 17 giờ ngày 21/4/2017 tại Km 309+700 trên Quốc lộ 1A thuộc địa phận xã HK, huyện HH, tỉnh Thanh Hóa, tổ công tác của Phòng cảnh sát điều tra (CSĐT) tội phạm về ma túy (PC47) Công an tỉnh Thanh Hóa phối hợp với Phòng 3 Cục C47 Bộ Công an đã phát hiện bắt các đối tượng: Trần Trọng H sinh năm 1948 ở phường DH, quận LC, TP. Hải Phòng và Nguyễn Đình S và thu giữ 09 (chín) bánh dạng hình hộp chữ nhật kích thước 15 x 10x2 (cm), bên ngoài mỗi bánh đều ký hiệu chữ “A” màu đỏ, bên trong mỗi bánh đều chứa chất bột màu trắng; 01 ô tô hiệu TOYOTA VIOS màu đen, BKS 15A-10322; 01 giấy phép lái xe hạng B2 mang tên Nguyễn Đình S; 01 thẻ căn cước công dân mang tên Trần Trọng H; 01 máy tính bảng Ipad màu vàng; 01 điện thoại di động hiệu OPPO; 01 điện thoại di động hiệu NOKIA 230 màu trắng, vàng; 02 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen; 13.500.000 đồng tiền ngân hàng Việt Nam.

Tại Kết luận giám định số 1101/MT-PC54 ngày 25/4/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận: 09 (chín) bánh hình hộp chữ nhật kích thước 15x10x2 (cm), bên ngoài mỗi bánh đều ký hiệu chữ “A” màu đỏ, bên trong mỗi bánh đều chứa chất bột màu trắng có tổng trọng lượng 3.050,4 gam, có Heroine (BL.

Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận: Khoảng 04 giờ ngày 21/4/2017, Trần Trọng H điện thoại cho Nguyễn Đình S (là con rể) đến nhà để đưa H đi vào huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An mua ma túy. Nhận được điện thoại, Nguyễn Đình S lái xe ô tô taxi nhãn hiệu VIOS, BKS 15A - 103.22 đến ngõ 107, phường DH, quận LC, thành phố Hải Phòng thấy Trần Trọng H xách một chiếc túi màu đen (kiểu túi đựng máy tính cá nhân) đang đứng đợi. Trên đường đi, Trần Trọng H điện thoại cho một người nam giới tên là M để thông báo việc H đã mang tiền vào đến Quỳnh Lưu để mua ma túy. Đến huyện Quỳnh Lưu, Trần Trọng H và Nguyễn Đình S vào khách sạn Đức Tài ở thị trấn huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An thuê phòng 304 nghỉ lại để chờ M mang ma túy đến bán. Khoảng 15giờ 20 phút cùng ngày, M điện thoại thông báo cho Trần Trọng H biết đã mang ma túy đến, đang đứng đợi ở đoạn đường trống trên Quốc lộ 1A, cách nhà nghỉ Đức Tài khoảng 3km (hướng Nghệ An - Hà Nội), H bảo S thanh toán tiền nhà nghỉ, lấy xe ô tô chở ra chỗ hẹn. Khi nhìn thấy Minh xách chiếc túi xách màu đen (giống chiếc túi xách của Trần Trọng H) đang đứng đợi ở bên đường, Hành bảo Sơn dừng xe, Hành lấy túi đựng tiền màu đen xuống xe ô tô, cầm túi tiền đưa cho M và nhận túi xách màu đen bên trong có Heroine do M đưa, sau đó đi lại xe ô tô để S chở về Hải Phòng. Trên đường đi H tháo hộp đựng đồ phía trước ghế phụ của xe ô tô lấy ra 09 bánh Heroine trong túi xách màu đen bỏ vào phía trong phần rỗng ở đầu xe và lắp chiếc hộp đựng đồ của xe ô tô vào vị trí ban đầu. Khoảng 17 giờ cùng ngày, khi xe ô tô do Nguyễn Đình S điều khiển chở Trần Trọng H đi đến Km 309 + 700 trên Quốc lộ 1A thuộc địa phận xã HK, huyện HH, tỉnh Thanh Hóa thì bị phát hiện bắt quả tang và thu giữ tang vật.

Trong thời gian tạm giam, Trần Trọng H đã chết vào hồi 14 giờ 20 phút ngày 16/6/2018 tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa, nguyên nhân: Suy hô hấp/u phổi. Ngày 28/6/2018 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa ban hành Quyết định rút quyết định truy tố số 01/QĐ-VKS-P1 rút một phần quyết định truy tố của Viện trưởng VKSND tỉnh Thanh Hóa tại Cáo trạng số 16/CT-VKS-P1 ngày 08/5/2018 đối với bị can Trần Trọng H về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999. Ngày 28/6/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã ra Quyết định đình chỉ vụ án số 01/2018/HSST-QĐ đối với bị can Trần Trọng H và xử lý các vật chứng thu giữ của Trần Trọng H theo quy định của pháp luật (BL số 315 - 319).

Ngày 20/6/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa có Quyết định trưng cầu giám định bổ sung số 02/2018/QĐ-TA về hàm lượng Heroine thu giữ được trong vụ án. Kết luận giám định số 188/C54(TT2) ngày 29/6/2018 của Viện Khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát, kết luận: Hàm lượng Heroine trong các mẫu ký hiệu từ B1 đến B9 gửi giám định lần lượt là: 80,1%; 78,4%; 80,7%; 81,1%; 79,7%; 77,3%; 79,6%; 78,8% và 81,1%. Sau khi giám định hàm lượng, xác định tổng khối lượng chất Heroine thu giữ trong vụ án là 2.428,7 gam (Hai nghìn bốn trăm hai mươi tám phẩy bảy gam) - BL số 323.

Tại bản án hình sự số 54/2018/HS-ST ngày 07 tháng 8 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã quyết định:

1. Tuyên bố: Nguyễn Đình S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”

2. Áp dụng: Điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 194; Điều 20; Điều 53; Điều 35 Bộ luật hình sự 1999. Điều 331; Điều 333; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí.

3. Xử phạt: Nguyễn Đình S: Tử hình. Tiếp tục giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

4. Hình phạt bổ sung: Phạt Nguyễn Đình S 5.000.000đ (Năm triệu đồng) sung quỹ nhà nước.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 14/8/2018, bị cáo Nguyễn Đình S có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội, có thái độ ăn năn hối cải và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội có quan điểm: Bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tại phiên tòa sơ và phúc thẩm bị cáo nhận tội xong khai báo chưa thực sự thành khẩn, khối lượng chất ma túy Heroine thu giữ trong vụ án là 09 bánh, tương đương 2.428,7 gam (Hai nghìn bốn trăm hai mươi tám phẩy bảy gam) Heroine tinh chất. Do đó mức hình phạt tử hình mà bản án sơ thẩm áp dụng với bị cáo là phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đình S về việc xin giảm nhẹ hình phạt, giữ nguyên hình phạt tử hình tại bản án hình sự sơ thẩm số 54/2018/HS-ST ngày 07/8/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa

- Người bào chữa cho bị cáo có quan điểm: Bị cáo có nhân thân tốt. Bị cáo không trực tiếp mua bán ma túy, chỉ là người giúp sức, người trực tiếp mua bán ma túy là đối tượng Trần Trọng H (đã chết) là bố vợ bị cáo; bị cáo là con rể, ở nhà của bố vợ nên phụ thuộc. Lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra từ bút lục 91 đến 96 thể hiện bị cáo rất thành khẩn. Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã nhận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã đề nghị xử phạt tù chung thân với bị cáo, nhưng bản án sơ thẩm không áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo mà xử phạt bị cáo hình phạt tử hình. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và giảm hình phạt cho bị cáo xuống hình phạt tù chung thân, phù hợp với vai trò của bị cáo trong vụ án và thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đình S đã khai nhận hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa như: Biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo như sau: Ngày 21/4/2018, bị cáo Nguyễn Đình S làm nghề lái xe Taxi, đã có hành vi lái xe đưa bố vợ là Trần Trọng H từ Hải Phòng vào Nghệ An để Trần Trọng H mua Heroine mang về Hải Phòng tiêu thụ. Khi cả hai bố con bị cáo về đến Km 309+700 trên Quốc lộ 1A thuộc địa phận xã HK, huyện HH, tỉnh Thanh Hóa thì bị lực lượng công an phát hiện, bắt và thu vật chứng. Khối lượng chất Heroine mà bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự là 2.428,7 gam. Thời điểm phạm tội là ngày21/4/2017. Do đó, bản án hình sự sơ thẩm số 67/2018/HS-ST ngày 31/8/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã quyết định buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo về việc xin giảm nhẹ hình phạt: Điểm b khoản 4 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định mức hình phạt từ 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình đối với hành vi mua bán trái phép 100 gam Heroine trở lên.

Đây là vụ án có đồng phạm, đối tượng Trần Trọng H là người chủ mưu, cầm đầu, giữ vai trò chính trong vụ án (đã chết vì bệnh trong thời gian tạm giam) còn bị cáo Nguyễn Đình S là người giúp sức. Bị cáo là con rể của Trần Trọng H nên có mối quan hệ phụ thuộc về mặt tình cảm, phạm tội do nể nang và hám lợi. Bị cáo có nhân thân tốt, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; tại giai đoạn điều tra, truy tố và phiên tòa phúc thẩm bị cáo khai báo thành khẩn, có thái độ ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Mặc dù vậy, khối lượng chất ma túy Heroine thu giữ trong vụ án là 09 bánh, tương đương 2.428,7 gam (Hai nghìn bốn trăm hai mươi tám phẩy bay gam) Heroine tinh chất, gấp hơn 24 lần định lượng quy định tại điểm b khoản 4 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999. Vì vậy, mức hình phạt tử hình mà bản án sơ thẩm áp dụng với bị cáo là phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Với những phân tích trên, Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo và quan điểm của người bào chữa cho bị cáo đề nghị tại phiên tòa về việc giảm nhẹ hình phạt. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa về việc đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không chấp nhận kháng cáo của bị cáo về việc xin giảm nhẹ hình phạt, giữ nguyên hình phạt tử hình tại bản án hình sự sơ thẩm số 54/2018/HS-ST ngày 07/8/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí phúc thẩm hình sự theo quy định tại Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và danh mục án phí, lệ phí tòa án ban hành kèm theo. Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí phúc thẩm hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356, điểm d khoản 1 Điều 367 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đình S về việc xin giảm nhẹ hình phạt. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 54/2018/HS-ST ngày 07/8/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa như sau:

- Áp dụng: Điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 194; Điều 20; Điều 53; Điều 35 Bộ luật hình sự 1999. Điều 331; Điều 333; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí. Áp dụng thêm điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đình S phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình S hình phạt tử hình. Tiếp tục giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Trong thời hạn 07 (bảy) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền làm đơn gửi Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xin ân giảm.

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực thi hành kể từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Bị cáo Nguyễn Đình S phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí phúc thẩm hình sự.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

333
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 231/2019/HS-PT ngày 23/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:231/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về