TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 231/2018/HSST NGÀY 25/09/2018 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC
Ngày 25 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Hai Bà Trưng, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 216/2018/TLST-HS ngày 26 tháng 7 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 146/2018/HSST-QĐ ngày 10 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:
1. Nguyễn Thị T. – Sinh năm 1949; Đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Số 17 ngõ 325 phố K., phường T, quận H., Thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 2/10; Con ông Nguyễn Hoàng Đ. (c) và bà Phạm Thị T. (c); Có chồng là Nguyễn Khả C., có 02 con sinh năm 1977 và 1978; Tiền án, tiền sự: Không; Danh chỉ bản số 257 lập ngày 23/5/2018 tại Công an quận Hai Bà Trưng; Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15h15’ ngày 21/12/2017, Tổ công tác Đội CSHS Công an quận Hai Bà Trưng tuần tra kiểm soát trên địa bàn phát hiện tại khu vực trước số 34 phố V., phường V., quận H., Thành phố Hà Nội đối tượng Dương Văn H. trên tay cầm 01 tờ tích kê, có biểu hiện đánh bạc dưới hình thức lô đề nên tổ công tác tiến hành kiểm tra hành chính phát hiện 01 tờ tích kê H. cầm trên tay có ghi số lô xiên 3: (55,19,06), (55,19,60), (55,48,19), (48,19,60) mỗi cặp 30.000 đồng; số đề :02, 92 x 44.000 đồng /con. Tại Cơ quan điều tra, H. khai nhận đã mua số đề, số lô xiên trên của Nguyễn Thị T. tại số 17 ngõ 325 phố K., phường T, quận H., Thành phố Hà Nội.
Cơ quan điều tra tiến hành dẫn giải H. đi xác định nơi mua số lô, đề và xác định người bán cho H.. Kết quả H. xác định được Nguyễn Thị T. là người đã bán số lô, số đề nêu trên cho H..
Khoảng 18h10’ cùng ngày, Tổ công tác kiểm tra và phát hiện Nguyễn Thị T. đang bán số lô, số đề cho 03 khách chơi khác là: Nguyễn Quang H. các số lô: 27, 72 x 10 điểm/1 con; số đề: 27, 72,86 x 55.000 đồng/con; Nguyễn Đình S. các số lô: 48,95 x 5 điểm/1 con; đề bộ 38 x 11.000 đồng/1 con. Nguyễn Văn Đ. các con lô: 96 x 10 điểm; đề 96 x 22.000 đồng và tập hợp vào 02 bảng cáp để chuyển Fax cho chủ lô đề nên đã đưa T. và trụ sở để làm rõ.
Ngoài ra, CQĐT còn thu giữ của T. 02 bảng cáp, số tiền 13.800.000 đồng; 01 máy fax đã qua sử dụng và 03 tờ tích kê của S., H., Đ..
Tại Cơ quan điểu tra, Nguyễn Thị T. khai nhận: Do bản thân muốn kiếm thêm thu nhập nên nảy sinh ý định bán số lô, số đề cho những người chơi. T. biết đối tượng Nguyễn Đức T. là người nhận bảng cáp lô đề nên đã liên hệ với T. để T. nhận các bảng cáp lô đề mà T. bán được. T. đồng ý và thỏa thuận tỷ lệ thu, tỷ lệ ăn với T.: 01 điểm lô = 22.000 đồng; trúng thì 01 điểm được 80.000 đồng; Đề thu 73% tiền khác đánh, trúng ăn 70 lần; lô xiên thu 65% tiền khách đánh nếu trúng ăn theo tỷ lệ: xiên 2 là 1 ăn 10 lần; xiên 3 là 1 ăn 40 lần, xiên 4 là 1 ăn 100 lần. Kết quả thắng thua theo kết quả xổ số miền bắc quay thưởng hàng ngày. T.chuyển bảng cáp qua máy fax đến số 02432127404 của T. và phải chuyển trước 18h10’ hàng ngày; tiền khách thắng thua sẽ thanh toán vào ngày hôm sau tại nhà T.. T. bắt đầu chuyển bảng cáp cho T. từ ngày 15/12/2017 nhưng sau khi chuyển bản cáp xong đã đốt đi và T. không nhớ đã được hưởng lợi bao nhiêu tiền.
T. bán cho khác với tỉ lệ: 1 điểm lô = 23.000 đồng (hưởng lợi 1000 đồng/điểm), số đề thu 90% tiền khách đánh (hưởng lợi 17%); lô xiên thu 90% tiền khách đánh (hưởng lợi 25%). Sau khi khách đánh xong thì T. sẽ tập hợp vào giấy A4 và dùng số fax 02439712488 để chuyển fax cho T. như đã thỏa thuận.
Ngày 21/12/2017, T.đã bán được các số lô, số đề sau cho khách với tổng số tiền là 15.234.000 đồng, gồm: 11.270.000 đồng tiền lô, 3.034.000 đồng tiền đề và 930.000 đồng tiền lô xiên. CQDDT đã tiến hành trưng cầu giám định chữ viết trên 02 bảng cáp ghi số lô, đề thu giữ của Nguyễn Thị T. và 04 tích kê ghi số lô, số đề, lô xiên của Dương Văn H., Nguyễn Quang H., Nguyễn Đình S. và Nguyễn Văn Đ. với chữ viết tại bản kiểm điểm của Nguyễn Thị T..
Tại bản Kết luận giám định số 1317 ngày 09/02/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận: Chữ số, chữ viết trên 02 bảng cáp ghi lô đề, 04 tờ tích kê và chữ số, chữ viết trên bản kiểm điểm của Nguyễn Thị T. là chữ do cùng một người viết ra.
Đối với đối tượng Nguyễn Đức T., tại CQĐT T. khai: trước đây là hàng xóm của T.nên có biết T. nhưng T. không có quan hệ làm ăn gì với T., không tham gia đánh bạc với T.. T. có lắp đặt máy bàn không có chức năng fax có số điện thoại 02432127404 nhưng do không có nhu cầu sử dụng nên đã bán cho một người không quen biết vào khoảng tháng 10 năm 2017.
Qua xác minh tại Công an phường N. ., quận L., Hà Nội và giấy báo tử của Bệnh viện T. thì Nguyễn Đức T. đã chết vào ngày 16/3/2018 nên cơ quan điều tra không đặt vấn đề xử lý đối với T..
Tại bản Cáo trạng số 202/CT/VKS-HS ngày 25/7/2018, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị T. về tội “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung đã nêu trên, ngày hôm 21/12/2017, bị cáo bán lô đề cho một số khách quen còn nợ tiền chưa trả, bị cáo chưa chuyển tiền bán lô đề cho đối tượng T. nên chưa được hưởng lợi từ việc bán số lô, đề.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng tham gia phiên tòa sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, đã giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng khoản 1 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 1, 3 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T. mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 36 tháng đến 48 tháng.
Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 máy fax, 13.800.000 đồng tiền do phạm tội mà có.
Tại lời nói sau cùng, bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Khoảng 18h10’ ngày 21/12/2017, tại số nhà 17, ngõ 325 phố K, phường T., quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, Nguyễn Thị T. đã có hành vi Tổ chức đánh bạc dưới hình thức bán số lô, đề với tổng số tiền là 15.234.000 đồng.
[3]. Hành vi tổ chức đánh bạc dưới hình thức bán số lô, số đề của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, tiếp xâm phạm trật tự công cộng, trật tự kỷ cương xã hội, xâm phạm đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phòng chống các tệ nạn xã hội, là nguyên nhân gây ra các tội phạm khác, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Mặc dù nhận thức rõ tác hại do nạn cờ bạc gây ra và cũng biết rất rõ pháp luật nghiêm cấm và coi hành vi tổ chức đánh bạc dưới mọi hình thức đều là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích hám lời nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện việc phạm tội. Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị T. đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức đánh bạc”, tội danh và hình phạt được quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng truy tố và kết luận về hành vi phạm tội đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4]. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhận thấy: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo phạm tội lần đầu, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bản thân bị cáo và chồng, con đều bệnh tật sức khỏe giảm sút, bị cáo là người cao tuổi. Từ những tình tiết nêu trên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[6]. Căn cứ vào tính chất và mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo; bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, ổn định nên thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được giáo dục, cải tạo ngoài xã hội cũng đủ tác dụng giáo dục riêng và đấu tranh phòng ngừa chung.
[7]. Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[8]. Về vật chứng của vụ án: Máy fax bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, số tiền 13.800.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có, nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.
[9]. Về án phí; quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị T. phạm tội “Tổ chức đánh bạc”.
2. Áp dụng khoản 1 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T. 15 (mười lăm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường Thanh Lương, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 máy Fax và số tiền 13.800.000 đồng.
Vật chứng hiện đang được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng số 244/18 ngày 14/8/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hai Bà Trưng và Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng, Giấy nộp tiền vào tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng tại Kho bạc Nhà nước Hai Bà Trưng lập ngày 13/8/2018 tại Chi cục Thi hành án Dân sự quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
4. Áp dụng các điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Buộc bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 231/2018/HSST ngày 25/09/2018 về tội tổ chức đánh bạc
Số hiệu: | 231/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/09/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về