Bản án 230/2020/HNGĐ-ST ngày 24/02/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 230/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/02/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 24 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 35/2020/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 01 năm 2020 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 551/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 02 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lã Thị Thanh G, sinh năm 1974. Quốc tịch: Việt Nam.

Địa chỉ: 2 R Avenue P Auckland 2025 New Zealand.

Bị đơn: Ông Nguyễn Thành Đ, sinh năm 1973.

Địa chỉ: Căn hộ cư E, phường P, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.

( Đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện ngày 10/12/2019 của nguyên đơn bà Lã Thị Thanh G đã được chứng thực chữ ký ngày 30/12/2019 tại Đại sứ quán Việt Nam ở New Zealand trình bày:

Tôi và ông Nguyễn Thành Đ có tiến hành kết hôn, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu và đã được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 88 ngày 23/10/1998. Thời gian đầu thời kỳ hôn nhân chúng tôi chung sống với nhau khá hạnh phúc. Sau đó giữa chúng tôi bắt đầu phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cãi nhau. Nguyên nhân do nhận thấy lối sống và cách nghĩ hoàn toàn khác biệt. Chúng tôi đã không chung sống với nhau từ hơn một năm nay và sống ở khoảng cách khá xa. Nay nhận thấy mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, vợ chồng sống với nhau không còn hạnh phúc, không còn tình cảm, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy tôi làm đơn này kính đề nghị Tòa án giải quyết việc ly hôn của tôi và ông Nguyễn Thành Đ.

Con chung: Quá trình chung sống chúng tôi có 02 con chung tên Nguyễn Ngọc T sinh ngày 05/11/2000 (đã trưởng thành), Nguyễn Ngọc T1sinh ngày 09/9/2004. Sau khi ly hôn, bà đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Ngọc T1sinh ngày 09/9/2004 không yêu cầu ông Nguyễn Thành Đ cấp dưỡng nuôi con chung.

Tài sản chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: Bà Lã Thị Thanh G khai không có.

Ông Nguyễn Thành Đ trình bày tại bản tự khai ngày 14/02/2020:

Năm 1988 tôi và bà Lã Thị Thanh G có tự nguyện tìm hiểu và tiến hành đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 88 ngày 23/10/1998 của Ủy ban nhân dân phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Thời gian đầu thời kỳ hôn nhân, chúng tôi chung sống với nhau khá hạnh phúc. Sau đó phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do vợ chồng nhận thấy lối sống và cách suy nghĩ hoàn toàn khác biệt, tính tình không phù hợp, quan điểm sống bất đồng dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau và ly thân hơn một năm nay. Nay nhận thấy mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, vợ chồng sống với nhau không còn hạnh phúc, không còn tình cảm, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, tôi đồng ý ly hôn với bà Lã Thị Thanh G.

Về con chung: Quá trình chung sống chúng tôi có 02 con chung tên Nguyễn Ngọc T sinh ngày 05/11/2000 (đã trưởng thành), Nguyễn Ngọc T1 sinh ngày 09/9/2004. Sau khi ly hôn, tôi đồng ý cho bà Giang được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Ngọc T1 sinh ngày 09/9/2004 vì hiện tại cháu đang ở với bà G tại New Zealand. Tôi không cấp dưỡng nuôi con chung.

Tài sản chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: Ông Nguyễn Thành Đ khai không có.

Trẻ Nguyễn Ngọc T1trình bày tại bản tự khai ngày 10/12/2019 đã được chứng thực chữ ký ngày 30/12/2019 tại Đại sứ quán Việt Nam ở New Zealand trình bày: Con tên là Nguyễn Ngọc T1 sinh ngày 09/9/2004 là con của bố Nguyễn Thành Đ và mẹ Lã Thị Thanh G. Nếu bố mẹ không sống với nhau nữa thì con muốn ở với mẹ.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Ngày 10/12/2019, nguyên đơn bà Lã Thị Thanh G có đơn xin vắng mặt trong tất cả quá trình tố tụng giải quyết vụ án đã được chứng thực chữ ký ngày 30/12/2019 tại Đại sứ quán Việt Nam ở New Zealand vì lý do bận công việc bà không thể về Việt Nam.

Ngày 14/02/2020, bị đơn ông Nguyễn Thành Đ có đơn đề nghị cho ông được vắng mặt tại tất cả quá trình tố tụng giải quyết vụ án của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh vì lý do công việc thường xuyên phải đi công tác nên không thể có mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

- Về thẩm quyền giải quyết: Xét yêu cầu của nguyên đơn thuộc tranh chấp về ly hôn, nguyên đơn bà Lã Thị Thanh G đang cư trú hợp pháp tại New Zealand thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 37, khoản 2 Điều 38 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Về vắng mặt đương sự: Xét bà Lã Thị Thanh G và ông Nguyễn Thành Đ đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bà Lã Thị Thanh G, ông Nguyễn Thành Đ theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung vụ án: Xét yêu cầu ly hôn của bà Lã Thị Thanh G, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Căn cứ vào giấy chứng nhận kết hôn số 88, quyển số 1/98 do Ủy ban nhân dân phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu cấp ngày 23/10/1988 có đủ cơ sở để xác định quan hệ hôn nhân giữa bà Lã Thị Thanh G và ông Nguyễn Thành Đ là hôn nhân hợp pháp.

Sau khi kết hôn, theo lời khai của bà G thời gian đầu ông bà sống khá hạnh phúc nhưng sau đó thì ông bà phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân vợ chồng tính tình không phù hợp, quan điểm sống bất đồng, đã ly thân được hơn một năm nay. Nay nhận thấy mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, vợ chồng sống với nhau không còn hạnh phúc, không còn tình cảm, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy bà làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết việc ly hôn của tôi và ông Nguyễn Thành Đ. Xét thấy vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau san sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; nghĩa vụ sống cùng với nhau trong khi hai vợ chồng bà G và ông Đ mỗi người một nơi, tình cảm vợ chồng càng không có điều kiện vun đắp, ông Đ có lời khai đồng ý ly hôn với bà G để cả hai có điều kiện để ổn định cuộc sống nhưng do bà Lã Thị Thanh G không tham gia phiên tòa nên Tòa án không thể công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, do đó có cơ sở để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà G theo quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình tuyên bà Lã Thị Thanh G được ly hôn với ông Nguyễn Thuận.

Con chung: Bà Lã Thị Thanh G và ông Nguyễn Thành Đ khai quá trình chung sống có 02 con chung tên Nguyễn Ngọc T sinh ngày 05/11/2000 (đã trưởng thành), Nguyễn Ngọc T1 sinh ngày 09/9/2004. Cả hai thống nhất đồng ý giao con cho bà Lã Thị Thanh G trực tiếp nuôi dưỡng cho tới khi truởng thành. Hội đồng xét xử nhận thấy: Trẻ Nguyễn Ngọc T1 hiện đang sinh sống với bà Giang tại New Zealand, trẻ Trang cũng có lời khai muốn sống với bà Giang, do đó nên giao con chung Nguyễn Ngọc T1 sinh ngày 09/9/2004 cho bà Giang trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cho đến khi con thành niên là đảm bảo sự ổn định, quyền lợi tốt nhất cho trẻ phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho ông Nguyễn Thành Đ cho đến khi bà G có yêu cầu.

Ông Nguyễn Thành Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con mà không ai được cản trở. Bà Lã Thị Thanh G có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông Đạt nếu ông Đạt lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc người thân thích; Cơ quan quản lý Nhà nước về gia đình; Cơ quan quản lý Nhà nước về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ thì Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tài sản chung và nợ chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[3] Án phí:

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm bà Lã Thị Thanh G phải chịu theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, khoản 1 Điều 37, khoản 2 Điều 38, Khoản 4 Điều 147, Điểm b Khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228; Khoản 1 Điều 273; Điều 464; điểm d Khoản 1, Khoản 2 Điều 469, điểm b Khoản 5 Điều 477, Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 1 Điều 51; Điều 53, Điều 54, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 85, Điều 86, Điều 87, Điều 122, Điều 123 và Điều 127 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Nghị Điều 27 quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lã Thị Thanh G.

Quan hệ hôn nhân: Bà Lã Thị Thanh G được ly hôn với ông Nguyễn Thành Đ.

Giấy chứng nhận kết hôn số 88, quyển số 1/98 do Ủy ban nhân dân phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu cấp ngày 23/10/1988 cấp cho bà Lã Thị Thanh G và ông Nguyễn Thành Đ không còn giá trị pháp lý.

Con chung: Quá trình chung sống có 02 con chung tên Nguyễn Ngọc T sinh ngày 05/11/2000 (đã trưởng thành) và Nguyễn Ngọc T1 sinh ngày 09/9/2004. Giao con chung tên Nguyễn Ngọc T1sinh ngày 09/9/2004 cho bà Lã Thị Thanh G được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục cho đến khi trưởng thành. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho ông Nguyễn Thành Đ cho đến khi bà G có yêu cầu.

Ông Nguyễn Thành Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con mà không ai được cản trở. Bà Lã Thị Thanh G có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông Đạt nếu ông Đạt lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc người thân thích; Cơ quan quản lý Nhà nước về gia đình; Cơ quan quản lý Nhà nước về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ thì Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tài sản chung, nợ chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2/ Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn bà Lã Thị Thanh G phải chịu 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng, được khấu trừ vào số tiền 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0045521 ngày 15/01/2020 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Bà G đã nộp đủ.

3/ Án xử sơ thẩm, thời hạn kháng cáo là 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày ông Nguyễn Thành Đ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Đối với bà Lã Thị Thanh G thời hạn kháng cáo bản án là 01 (Một) tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 230/2020/HNGĐ-ST ngày 24/02/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:230/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về