Bản án 230/2019/HSST ngày 27/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 230/2019/HSST NGÀY 27/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 5 năm 2019 tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, xét xử vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 222/2019/HSST ngày 16 tháng 4 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 247//2019/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2019 đối với:

Bị cáo: Triệu Nho T, sinh ngày 08/8/1980. ĐKHKTT và chỗ ở: Xóm TL, xã NT, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên. Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Dao; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 0/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Triệu Kim N và con bà Bàn Thị Ch ( Đều đã chết); Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai. Có vợ Trịnh Thị C, sinh năm 1977; Có 03 con, con thứ nhất sinh năm1998, con thứ hai sinh năm 2000, con thứ ba sinh năm 2003.

- Tiền án, tiền sự: Không

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/3/2019 đến nay (Có mặt tại phiên tòa )

Người chứng kiến: Ông Nguyễn Quang Th, sinh năm 1973. Trú tại: Tổ 4, phường HVT, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 15 phút ngày 13/3/2019 tổ công tác công an phường HVT, thành phố TN đang làm nhiệm vụ tại tổ 4 của phường, phát hiện 01 nam thanh niên có biểu hiện liên nghi vấn liên quan đến ma túy, tổ công tác yêu cầu kiểm tra, đối tượng khai nhận là Triệu Nho T, sinh năm 1980, trú tại Xóm TL, xã NT, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên và tự giác giao nộp từ trong lòng bàn tay trái 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng (T khai đó là Heroine). Tổ công tác đã T hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định.

Hồi 17 giờ 25 phút cùng ngày, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố TN đã tiến hành cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của Triệu Nho T có khối lượng 0,102 gam và lấy mẫu vật gửi giám định, ký hiệu A2.

Tại bản kết luận giám định số 1372/C09-TT2 ngày 22/3/2019 của Viện khoa học hình sự Bộ công an kết luận: Chất bột màu trắng trong mẫu A2 thu giữ của Triệu Nho T là chất ma túy, loại Heroine.

Tại cơ quan điều tra, Triệu Nho T khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 14 giờ 10 phút ngày 13/3/2019, T đi xe ôm đến khu vực tổ 4, phường HVT, thành phố TN, mục đích tìm mua Heroine. Tại đây, T gặp và mua một gói Heroine từ một người đàn ông không rõ lai lịch với giá 200.000đ. T cầm gói ma túy vừa mua được trên tay trái và đi về thì bị tổ công tác phát hiện kiểm tra, T tự giác giao nộp cho cơ quan Công an một gói giấy bạc màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng. Sau đó tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng.

Lời khai nhận tội của Triệu Nho T phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và những chứng cứ tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng của vụ án: Một bì niêm phong ký hiệu A2, bên trong có chứa chất ma túy loại Heroine. Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TNchờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 224/CT-VKSTPTN ngày 12 tháng 4 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TNđã truy tố bị cáo Triệu Nho T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Trong phần luận tội tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN tóm tắt nội dung vụ án, phân tích các căn cứ, đánh giá nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Từ đó đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Triệu Nho T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự; Xử phạt từ 18 tháng đến 24 tháng tù giam.

Về hình phạt bổ sung: Xét nhân thân và điều kiện kinh tế của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và điều 47 Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử: Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu A2 bên trong có chứa chất ma túy Heroine.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội.

Phần lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến cũng không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan Điều tra, lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và vật chứng thu giữ. Do vậy, Hội đồng xử có đủ căn cứ kết luận: Hồi 14 giờ 15 phút ngày 13/3/2019, tại khu vực tổ 4 phường HVT, thành phố TN, Triệu Nho T đang có hành vi tàng trữ 0,102 gam Heroine để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác Công an phường HVT, thành phố TN phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên.

[3] Đánh giá của Hội đồng xét xử: Bị cáo đã biết ma túy là chất cấm, được Nhà nước quản lý nhưng vẫn cố tình tàng trữ để sử dụng cho bản thân với khối lượng 0,102 gam Heroine. Do vậy hành vi của bị cáo đã đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều 249 quy định:

"1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy , ... thuộc một trong ccá trường hợp sau đây thì bị phạt từ từ 01 năm đến 05 năm:

…….

c, Heroine …có khối lượng từ 0,1gam đến dưới 05gam .

[4]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy mà còn là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội khác, làm khánh kiệt về kinh tế, suy kiệt giống nòi, bị cáo lại là người có đầy đủ nhận thức về tác hại của ma túy nhưng vẫn phạm tội. Do vậy, hành vi của bị cáo phải xử lý nghiêm khắc bằng pháp luật hình sự để giáo dục riêng và ngăn ngừa tội phạm chung.

Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy nhưng chưa có tiền án, tiền sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, nên được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử thấy cần phải có một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để bị cáo thấy được sự nghiêm khắc của pháp luật, biết tu dưỡng rèn luyện bản thân trở thành người lương thiện. Mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo tại phiên tòa là phù hợp.

[5] Vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự vµ Điều 47 Bộ luật hình sự:

-Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu A2 bên trong là chất ma túy loại Heroine.

[6] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù lẽ ra Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, tuy nhiên tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai là người nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Về nguồn gốc số Heroine bị thu giữ Triệu Nho T khai mua của một người đàn ông không rõ lai lịch, địa chỉ tại khu vực tổ 4, phường HVT, thành phố TN.

Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố TN không có cơ sở làm rõ để xử lý.

Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Triệu Nho T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Triệu Nho T 15 (Mười lăm) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 13/3/2019.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, quyết định tạm giam bị cáo Triệu Nho T 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự:

-Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu 1372/C09-TT2.

(Biên bản giao nhận vật chứng số 266 ngày 22/4/2019 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên và Công an thành phố Thái Nguyên)

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Triệu Nho T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà Nước.

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 230/2019/HSST ngày 27/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:230/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về