TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 230/2018/DS-ST NGÀY 26/11/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 26 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 539/2018/TLST-DS ngày 04 tháng 9 năm 2018 về việc “Hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 368/2018/QĐXXST-DS ngày 16 tháng 11 năm 2018, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP V (P).
Trụ sở: Số 89 L, phường L, quận Đ, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Ngô Chí D – Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị.
Người đại diện theo ủy quyền: ông Lê Hiền T – Trưởng phòng thu hồi nợ pháp lý. (Văn bản ủy quyền số 29/2017/UQ-CT ngày 22/6/2017)
Ủy quyền lại cho: Chị Nguyễn Kim T, sinh năm: 1996. (có mặt)
Địa chỉ: Số 43, đường số 7, khu dân cư N, phường A, quận B, thành phố Hồ Chí Minh. (Văn bản ủy quyền số 7959/2018/UQ-GĐK-TDTD ngày 22/8/2018).
- Bị đơn: Chị Lâm Thị Bạch H, sinh năm 1988. (xin vắng mặt) Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 23 tháng 8 năm 2018 và những lời khai tiếp theo cũng như tại phiên tòa, chị Nguyễn Kim T đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Vào ngày 15/10/2013, chị Lâm Thị Bạch H có ký Hợp đồng tín dụng số 20131012-500000-0129 với Ngân hàng TMCP V vay số tiền vốn là 34.650.000 đồng, lãi suất thỏa thuận là 3.75%/tháng, mục đích vay là tiêu dùng cá nhân. Phương thức thanh toán trả dần. Theo đó, chị H có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng số tiền 63.691.000đồng (gồm cả gốc và lãi) trong thời hạn 36 tháng; mỗi tháng trả 1.770.000đồng, tháng cuối cùng trả 1.741.000đồng. Bắt đầu thanh toán từ ngày 17/11/2013.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng, chị H đã thanh toán cho Ngân hàng được 8 lần với số tiền 14.160.000đồng. Đến nay, dù đã hết thời hạn thanh toán theo hợp đồng, chị H không thanh toán được thêm khoản tiền nào dù Ngân hàng đã nhiều lần nhắc nhở.
Nay chị T đại diện Ngân hàng TMCP V yêu cầu chị Lâm Thị Bạch H trả số tiền là 49.531.000 đồng (trong đó nợ gốc là 30.351.995 đồng; nợ lãi là 19.179.005 đồng). Ngân hàng không yêu cầu chị H trả lãi suất quá hạn từ ngày hết thời hạn thanh toán theo hợp đồng cho đến ngày xét xử, cũng không yêu cầu chị H phải trả lãi suất chậm thi hành trong giai đoạn thi hành án. Ngoài ra, không còn yêu cầu gì khác.
Tại Bản tự khai, chị Lâm Thị Bạch H trình bày: Chị xác định có ký hợp đồng tín dụng với Ngân hàng TMCP V để vay số tiền 34.650.000đồng, lãi suất, mục đích vay, thời gian thanh toán, số tiền đã thanh toán đúng như lời trình bày của Ngân hàng. Chị xác nhận còn nợ Ngân hàng số tiền gốc và lãi là 49.531.000 đồng (trong đó nợ gốc là 30.351.995 đồng; nợ lãi là 19.179.005 đồng), chị đồng ý thanh toán cho Ngân hàng nhưng do hoàn cảnh khó khăn, chị xin được trả dần mỗi tháng 1.500.000 đồng.
Sau khi thụ lý vụ án, chị T đại diện cho nguyên đơn có đơn yêu cầu không tiến hành hòa giải vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết, đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ , bị đơn chị H có bản tự khai trình bày ý kiến và xin vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên vụ án được đưa ra xét xử là đúng quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ các kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng:
Ngân hàng TMCP V khởi kiện yêu cầu chị Lâm Thị Bạch H trả số tiền vay còn nợ theo hợp đồng tín dụng đã ký kết. Quan hệ tranh chấp là tranh chấp “Hợp đồng tín dụng” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự. Hợp đồng tín dụng thể hiện bị đơn chị Lâm Thị Bạch H có hộ khẩu thường trú tại ấp B, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa, bị đơn chị Lâm Thị Bạch H có đơn đề nghị xin vắng mặt, căn cứ vào khoản 1 Điều 227; khoản 1 điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[2]. Về yêu cầu khởi kiện:
Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ và lời trình bày của chị Nguyễn Kim T tại phiên tòa, thấy rằng giữa Ngân hàng TMCP V với chị Lâm Thị Bạch H có ký kết hợp đồng tín dụng số 20131012-500000-0129 ngày 15 tháng 10 năm 2013 để chị H vay số tiền vốn là 34.650.000 đồng, lãi suất thỏa thuận là 3.75%/tháng, mục đích vay là tiêu dùng cá nhân. Phương thức thanh toán trả dần. Theo đó, chị H có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng số tiền 63.691.000đồng (gồm cả gốc và lãi) trong thời hạn 36 tháng; mỗi tháng trả 1.770.000đồng, tháng cuối cùng trả 1.741.000đồng. Bắt đầu thanh toán từ ngày 17/11/2013. Sau khi vay, chị H đã thanh toán cho Ngân hàng được số tiền 14.160.000 đồng, còn nợ lại số tiền 49.531.000 đồng (trong đó nợ gốc là 30.351.995 đồng; nợ lãi là 19.179.005 đồng).
Tại bản tự khai, chị H thừa nhận việc ký kết hợp đồng tín dụng với Ngân hàng, xác nhận số tiền còn nợ là 49.531.000 đồng (trong đó nợ gốc là 30.351.995 đồng; nợ lãi là 19.179.005 đồng) và đồng ý trả cho Ngân hàng nhưng xin trả dần mỗi tháng 1.500.000 đồng.
Xét thấy, việc chị H xin trả dần mỗi tháng 1.500.000 đồng không được chị T (đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn) đồng ý và chị H đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ vay cho Ngân hàng, thời gian vi phạm cũng đã lâu. Do đó, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho Ngân hàng, cần buộc chị H có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng một lần số tiền còn nợ là phù hợp.
[3]. Về lãi suất:
Đối với lãi suất quá hạn phát sinh từ sau khi hết thời hạn thanh toán cho đến ngày xét xử vụ án, lãi suất phát sinh do chậm thi hành án, tại phiên tòa, chị T đại diện cho Ngân hàng TMCP V không yêu cầu, việc này có lợi cho bị đơn chị Lâm Thị Bạch H nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[4]. Về án phí: Chị Lâm Thị Bạch H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 26, 35, 39, 147, 184, 186, 273, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 471, 474 Bộ luật Dân sự 2005;
Căn cứ khoản 2 Điều 91, điểm a khoản 3 Điều 98 Luật các tổ chức tín dụng.
Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP V đối với chị Lâm Thị Bạch H về việc tranh chấp “Hợp đồng tín dụng”.
Buộc chị Lâm Thị Bạch H có trách nhiệm trả cho Ngân hàng TMCP V số tiền 49.531.000 đồng (trong đó nợ gốc là 30.351.995 đồng; nợ lãi là 19.179.005 đồng).
2. Về án phí: Chị Lâm Thị Bạch H phải chịu 2.476.550đồng án phí dân sự sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước. Hoàn lại cho Ngân hàng TMCP V số tiền 1.238.000đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0003197 ngày 30/8/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa.
Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn chị Lâm Thị Bạch H vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 230/2018/DS-ST ngày 26/11/2018 về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Số hiệu: | 230/2018/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Huệ - Long An |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 26/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về