Bản án 229/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 229/2020/HS-ST NGÀY 25/11/2020 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 11 năm 2020, tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 248/2020/TLST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 284/2020/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2020 đối với các bị cáo:

1.Tiêu Thanh Th, sinh năm 1993, tại tỉnh TV. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khóm D. Phường S, thành phố TV, tỉnh TV (đã bán nhà đi khỏi địa phương từ năm 2001 và đi đâu không rõ); nơi ở: Phòng số V-Khách sạn NH, số 708, đường TL 10, phường BTĐ, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa: 2/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tiêu Văn A (chết) và bà Âu Thị Ngọc H; chưa có chồng con; tiền án, tiền sự: Không có; bị bắt tạm giữ ngày 23-12-2019 (tính theo Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân lập lúc 22 giờ 40 phút ngày 23-12-2019), tạm giam ngày 30-12-2019 “có mặt”;

2.Nguyễn Huyền A, sinh năm 1996, tại tỉnh ĐT. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp LH, xã LK A, huyện HN, tỉnh ĐT; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thành N và bà Lâm Thị Mỹ L; có vợ (không có đăng kết hôn) và 01 con sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Ngày 30/9/2015, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xử phúc thẩm phạt 01 năm 06 tháng tù về “Tội cố ý gây thương tích” (chấp hành xong hình phạt chính ngày 30/6/2016, quyết định khác của bản án sơ thẩm tháng 10/2015 và không phải chịu án phí phúc thẩm, án tích đã được xóa); bị bắt tạm giữ ngày 23-12-2019 (tính theo Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an phường An Lạc, quận Bình Tân lập lúc 19 giờ 45 phút ngày 23-12-2019), tạm giam ngày 30-12-2019 “có mặt”.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Vì Thành Ch, sinh năm 1997.

Nơi đăng ký thường trú: Thôn T, xã PX, huyện KN, tỉnh ĐL; nơi ở: Phòng trọ 9B, nhà số H, đường D, Phường H, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 23/12/2019, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy – Công an quận Bình Tân kết hợp với Công an phường An Lạc, quận Bình Tân tuần tra đến trước nhà số B, đường KDV, Khu phố S, phường AL, quận BT thì nhìn thấy Nguyễn Huyền A có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra, phát hiện thu giữ trong túi áo khoác phía trước bên trái của A 01 gói nylon màu đen có ghi chữ RAPTURE đựng 03 gói nylon chứa tinh thể không màu và A cho biết đó là ma túy; còn phía sau lưng quần của A 01 khẩu súng bằng kim loại có số 000062 và 01 băng đạn gồm 06 viên đạn bằng kim loại, đuôi các viên đạn có ghi SBP 7.65 nên đã đưa A cùng vật chứng đến Công an phường An Lạc xử lý người có hành vi phạm tội quả tang. Tại đây, A khai số ma túy này là do mua của Tiêu Thanh Th để mang về quê tỉnh Đồng Tháp sử dụng; còn khẩu súng và 06 viên đạn là mua của tên Vì Thành Ch.

Mở rộng điều tra, lúc khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày thực hiện kiểm tra phòng số V-Khách sạn NH, số 708, đường TL 10, phường BTĐ, quận BT do Tiêu Thanh Th thuê lưu trú. Qua đó, phát hiện và thu giữ trên giường 02 gói nylon chứa tinh thể không màu để trong cái hộp bằng nhựa màu trắng (Th cho biết đó là ma túy), 01 cân điện tử, 01 điện thoại di động hiệu MI có số thuê bao 0901094895, 01 bình nhựa có ống hút nhựa, ống thủy tinh dùng để sử dụng ma túy, 01 túi nylon màu trắng có ghi chữ “1 ĐỔI 1 TRONG VÒNG 1 THÁNG CHO ĐIỆN THOẠI LỖI - thegioididong”, bên trong có 09 viên đạn bằng kim loại (đuôi các viên đạn có ghi SBP 7.65) để trong hộp giấy, có khay đựng đạn bằng nhựa màu xanh và 04 ống thủy tinh một đầu tròn; 05 ống hút nhựa nên đã đưa Th cùng vật chứng đến Công an phường Bình Trị Đông xử lý người phạm tội quả tang rồi sau đó Cơ quan điều tra thụ lý giải quyết. Tiếp theo vào lúc 10 giờ 50 phút ngày 24 tháng 12 năm 2019, Cơ quan điều tra kết hợp với Công an Phường 9, Quận 6 đến quán Cà phê Đ, số C, đường HB, Phường C, Quận S gặp và làm việc với tên Vì Thành Ch. Qua đó, phát hiện và thu giữ của tên Chung 01 cái túi giấy bên trong có 01 khẩu súng bằng kim loại, có số MP18152274C, 02 hộp tiếp đạn và 05 viên đạn vỏ bằng kim loại, đầu bằng cao su, đuôi có ghi OZK 9mm P.A; 01 điện thoại di động hiệu Iphone có số thuê bao 0939185927 và số tiền 30.000.000 đồng.

Tại Cơ quan điều tra, A khai: Do chỗ quen biết nên vào khoảng 04 giờ ngày 23/12/2019, A đi từ Đồng Tháp lên Thành phố Hồ Chí Minh rồi đến phòng số V- Khách sạn NH, số 708, đường TL 10, phường BTĐ, quận BT ở nhờ phòng của Tiêu Thanh Th thuê để chờ gặp Vì Thành Ch mua súng và đạn. Do có đặt mua qua Zalo 01 khẩu súng bằng kim loại có số 000062 và 01 băng đạn 15 viên đạn với giá 30.000.000 đồng của tên Chung từ trước nên vào khoảng 09 giờ cùng ngày, A đến điểm hẹn quán Cà phê Đ nhận mua súng trước, còn đạn thì tên Ch thuê người chạy xe ôm Grab chuyển đến cho A lúc khoảng 17 giờ cùng ngày. Do bản thân nghiện ma túy nên sau khi mua súng xong rồi quay trở về phòng lúc khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, A hỏi Th có ma túy không, Th nói có và bán cho A 01 gói ma túy với giá 1.500.000 đồng để sử dụng; sau đó Th đi ra ngoài, còn A ở lại một mình tự chia gói ma túy ra thành 03 gói nhỏ để tiện sử dụng và lắp 06 viên đạn vào băng đạn khẩu súng; 09 viên đạn còn lại, Anh để trong túi nylon màu trắng có ghi chữ “1 ĐỔI 1 TRONG VÒNG 1 THÁNG CHO ĐIỆN THOẠI LỖI-thegioididong” nhưng đến khi ra khỏi phòng đã để quên lại số đạn này. Ngoài ra, A còn khai việc mua súng, đạn của tên Ch cũng như lúc lắp 06 viên đạn vào băng đạn khẩu súng thì Th không biết và mục đích mang theo để phòng thân. Còn Tiêu Thanh Th khai: Đối với toàn bộ số ma túy mà công an thu giữ khi bị bắt và cả số ma túy của Nguyễn Huyền A, đều do Th mua của người đàn ông (không rõ lai lịch) vào lúc khoảng 15 giờ ngày 23/12/2019, tại trước nhà số N, đường TL 10, phường BTĐ, quận BT với giá 1.500.000 đồng, gồm 01 gói lớn và 02 gói nhỏ. Sau đó, Th lấy ra một ít sử dụng, bán cho A gói lớn với giá 1.500.000 đồng, 02 nhỏ còn lại để trên giường nhằm để sử dụng và nếu có ai mua thì bán nhưng bị công an vào kiểm tra phát hiện bắt giữ. Đối với 09 viên đạn, 04 ống thủy tinh có 01 đầu tròn và 05 ống hút nhựa là của A để quên lại phòng bởi do, lúc A đến thì có cầm theo 01 túi nylon vào để trên bàn, đồng thời lúc A đi ra ngoài có gọi điện thoại cho Th nói đã bỏ quên túi nylon trên bàn và kêu Th giữ dùm thì Th trả lời là “cứ để đó đi, tôi cũng ra khỏi phòng”. Th không biết việc A mua súng, không biết việc A mang súng, đạn đến phòng của Th cho đến khi công an vào kiểm tra thì mới biết trong túi lylon của A có 09 viên đạn; còn việc bán ma túy cho A là lần đầu tiên và bản thân đã sử dụng ma túy được khoảng 04 tháng. Riêng tên Vì Thành Ch khai: Do đã lên mạng Zalo để đăng thông tin bán súng bắn đạn kim loại, đầu cao su nên trước đó khoảng 01 tuần, A có liên hệ bằng điện thoại hỏi mua súng, đạn của tên Ch với yêu cầu súng bắn đạn kim loại đồng và có độ sát thương cao. Sau đó, Ch gửi hình ảnh súng, đạn qua Zalo rồi 02 bên thống nhất giá bán là 30.000.000 đồng. Còn nguồn gốc súng, đạn đã bán cho A là do tên Ch mua của tên T (không rõ lai lịch) ở TH, PY với giá 22.000.000 đồng vào ngày 20/12/2019. Đến 18 giờ ngày 23/12/2019, tên T điện thoại báo sẽ có người đàn ông ở Quận MH mang đạn đến giao cho tên Ch để tên Ch giao cho A theo như thỏa thuận. Sau khi nhận đạn từ người đàn ông này (không có kiểm tra trong hộp đạn có bao nhiêu viên đạn và nghĩ là đạn cao su), tên Ch đặt người chạy xe ôm Grab mang đến giao cho A tại địa chỉ mà A cung cấp. Riêng súng, đạn của tên Ch bị thu giữ lúc kiểm tra là do Ch mua của người có nickname Zalo Blanle (Không rõ lai lịch) với giá 15.000.000 đồng vào ngày 20/12/2019 và nghĩ mua bán súng, đạn bằng cao su thì không nguy hiểm nhiều nên mới mua để bán lại kiếm lời. Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Iphone, số thuê bao 0939185927 đã bị thu giữ có sử dụng để lên mạng đăng bán súng, đạn và số tiền 30.000.000 đồng là tiền do bán súng, đạn cho Anh mà có.

Theo các Bản kết luận giám định số 51/KLGĐ-H, 53/KLGĐ-H và 59/KLGĐ-H ngày 13/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh thì: khẩu súng ngắn hiệu ZORAKI 906, có số súng 000062 có tính năng, tác dụng tương tự như vũ khí quân dụng và 15 viên đạn có cùng ký hiệu SBP 7,65 thuộc nhóm vũ khí quân dụng (thu giữ của A); còn khẩu súng ngắn hiệu MP9c, có số súng MP18152274C và 05 viên đạn có cùng ký hiệu OZK 9mm P.A thuộc nhóm công cụ hỗ trợ (thu giữ của tên Chung). Tuy Cơ quan điều tra đã có văn bản gửi cho Cơ quan an ninh điều – Công an Thành phố Hồ Chí Minh biết để thụ lý giải quyết theo thẩm quyền về hành vi tàng trữ, mua bán trái phép vũ khí quân dụng đối với A và tên Ch nhưng Cơ quan này đã có văn bản phản hồi từ chối tiếp nhận giải quyết với lý do, khẩu súng ngắn hiệu ZORAKI 906, có số súng 000062 với tính năng, tác dụng tương tự như vũ khí quân dụng, không thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ có hiệu lực thi hành từ ngày 10/01/2020; còn về 15 viên đạn, tuy là vũ khí quân dụng nhưng không đủ định lượng để xử lý hình sự theo quy định tại Thông liên ngành số 01/TTLN ngày 07/01/1995 của Bộ Nội vụ - Viện kiểm sát nhân dân Tối cao - Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 95 và Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 1985.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Tiêu Thanh Th khai, bị cáo đã sử dụng ma túy được 04 tháng nên trước đó có đến khu vực đường TL 10, thuộc phường BTĐ, quận BT mua 01 gói lớn và 02 gói nhỏ ma túy loại “hàng đá” của người đàn ông (không rõ lai lịch) với giá 1.500.000 đồng. Về phòng, bị cáo đã lấy ra một ít sử dụng rồi sau đó lần đầu tiên bán lại cho bị cáo Nguyễn Huyền A 01 gói lớn ma túy với giá 1.500.000 đồng, đã nhận tiền và tiêu xài hết nhưng khi bị cáo A mang số ma túy này đi ra ngoài thì bị bắt giữ; riêng 02 gói còn lại, bị cáo để trên giường cũng với mục đích sử dụng và nếu có ai mua thì bán kiếm lời cho đến lúc bị công an vào kiểm tra thu giữ; bị cáo không biết và cũng không liên quan gì đến súng, đạn của bị cáo A; còn lúc bị kiểm tra, trong túi nylon có 09 viên đạn là của bị cáo A để quên khi ra khỏi phòng bị cáo. Riêng bị cáo A khai, tuy bị cáo đã nghiện ma túy loại “hàng đá” gần 02 năm nay nhưng đây là lần đầu tiên bị cáo mua 01 gói ma túy của bị cáo Th với giá 1.500.000 đồng rồi phân ra thành 03 gói nhỏ và khi mang theo về quê tại tỉnh ĐT để dành sử dụng dần cho tiện thì bị công an kiểm tra bắt giữ; riêng khẩu súng, 06 viên đạn đã nạp trong ổ tiếp đạn và 09 viên đạn trong túi nylon để quên tại phòng của bị cáo Th thì đều là của bị cáo mua của tên Vì Thành Ch với giá 30.000.000 đồng với mục đích để phòng thân; lúc phân ma túy và nạp đạn vào súng, do bị cáo Th đi ra ngoài nên bị cáo Th không biết và đồng thời bị cáo Th cũng không có liên quan gì đến súng, đạn của bị cáo nên nay các bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Các bị cáo đều không có ý kiến gì về hàm lượng ma túy đã giám định và giải quyết vật chứng.

Bản cáo trạng số 251/CT-VKS ngày 07 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Tiêu Thanh Th và Nguyễn Huyền A ra trước Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử đối với bị cáo Thủy về “Tội mua bán trái phép chất ma túy”, theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015; còn bị cáo A về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 cùng Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận đã đưa ra ý kiến: Bị cáo Tiêu Thanh Th đã thực hiện hành vi bán ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2,2026g, loại Methamphetamine cho bị cáo Nguyễn Huyền A và cất giữ số ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,2099g, loại Methamphetamine cũng nhằm mục đích để bán (tổng khối lượng 3,4125g, loại Methamphetamine). Còn bị cáo Nguyễn Huyền A đã có hành vi cất giữ ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2,2026g, loại Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương, riêng bị cáo A còn có nhân thân xấu nên cần phải xử lý các bị cáo bằng một mức án thật nghiêm và tương xứng. Tuy nhiên, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo Th có nhân thân tốt, mới phạm tội lần đầu, nghĩ nên xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra các bị cáo phải chịu. Do đó, giữ nguyên quyết định đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Th với mức án từ 04 năm đến 05 năm tù về “Tội mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo A với mức án từ 03 năm đến 04 năm tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Còn về vật chứng, đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 30.000.000 đồng và 03 chiếc điện thoại di động. Tịch thu tiêu hủy 01 khẩu súng ngắn và 01 hộp tiếp đạn; 01 khẩu súng ngắn có kèm theo 02 hộp tiếp đạn và 05 viên đạn; 09 viên đạn bằng kim; 02 gói ma túy đã giám định, 01 gói nylon, 01 cái hộp nhựa, 01 cân điện tử, 01 bình nhựa, 01 túi nylon, 01 hộp giấy, 09 ống thủy tinh và 01 túi xách.

Các bị cáo không ai tranh luận và bào chữa gì về hành vi đã bị truy tố, còn lời nói sau cùng thì xin giảm nhẹ mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra – Công an quận Bình Tân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của các bị cáo Tiêu Thanh Th và Nguyễn Huyền A tại phiên tòa hôm nay cho thấy: Vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 23/12/2019, tại phòng V-Khách sạn NH, số 708, đường TL 10, phường BTĐ, quận BT. Bị cáo Th đã có hành vi bán cho bị cáo A 01 gói nylon chứa tinh thể không màu và đồng thời sau đó cũng tại đây, bị cáo còn có thêm hành vi cất giữ 02 gói nylon chứa tinh thể không màu cũng nhằm để tiếp tục bán cho người khác thì bị bắt quả tang. Riêng bị cáo A, vào khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày tại trước nhà số B, đường KDV, Khu phố S, phường AL, quận BT. Bị cáo đã có hành vi cất giữ 03 gói nylon chứa tinh thể không màu do vừa mua được của bị cáo Th (mua 01 gói lớn rồi tự phân ra thành 03 gói nhỏ) nhằm mục đích để dành sử dụng thì bị bắt quả tang. Theo các Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hồ Chí Minh thì, “Tinh thể không màu trong 03 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Huyền A (đương sự), Nguyễn Ngọc Tuấn (Điều tra viên), Phạm Ngọc G (người chứng kiến) và hình dấu Công an phường An Lạc, quận Bình Tân” gửi đến giám định “là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 2,2026g, loại Methamphetamine” và “Tinh thể không màu trong 02 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Tiêu Thanh Th (đương sự), Trần Văn Thái (Điều tra viên), Trần Quang N (người chứng kiến) và hình dấu Công an phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân” gửi đến giám định “là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 1,2099g, loại Methamphetamine” (tổng khối lượng ma túy của bị cáo Thủy là 3,4125g, loại Methamphetamine, còn của bị cáo Anh là 2,2026g, loại Methamphetamine). Do đó, bị cáo Tiêu Thanh Th đã phạm “Tội mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015; còn bị cáo Nguyễn Huyền A đã phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại Tòa hôm nay phù hợp với lời khai trước đây tại Cơ quan điều tra, lời khai của những người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản đối chất, vật chứng thu giữ được, biên bản niêm phong, mở niêm phong vật chứng… nên đã đủ chứng cứ buộc tội các bị cáo và mức án đề nghị của Kiểm sát viên vừa nêu trên là có cơ sở chấp nhận. Còn đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo Th, do không rõ lai lịch nên cơ quan điều tra còn đang tiếp tục truy xét đến khi nào phát hiện được sẽ xử lý sau; đối với việc, tuy bị cáo A có hành vi tàng trữ, tên Ch có hành vi mua bán công cụ hỗ trợ nhưng do cả 02 chưa ai bị xử phạt hành chính về hành vi này hay bị kết án về tội này nên hành vi của bị cáo A và tên Ch chưa đủ yếu tố cấu thành “Tội tàng trữ, mua bán trái phép công cụ hỗ trợ”, theo quy định tại Điều 306 Bộ luật Hình sự năm 2015. Riêng việc bị cáo A và tên Ch đã hành vi tàng trữ, mua bán 15 viên đạn được giám định là vũ khí quân dụng, Tòa án đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung xem xét trách nhiệm hình sự của đối với bị cáo A và tên Chung. Tuy Cơ quan điều tra-Công an quận Bình đã có văn bản gửi cho Cơ quan an ninh điều-Công an Thành phố Hồ Chí Minh biết để thụ lý giải quyết theo thẩm quyền nhưng không được chấp nhận bởi cho rằng, chưa đủ định lượng để xử lý hình sự đối với 02 người này theo quy định tại Thông liên ngành số 01/TTLN ngày 07/01/1995 của Bộ Nội vụ-Viện kiểm sát nhân dân Tối cao-Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 95 và Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 1985. Tính đến nay, Bộ luật Hình sự năm 1985 đã nhiều lần được thay thế và sửa đổi, bổ sung và “Tội tàng trữ, mua bán trái phép vũ khí quân dụng” theo Điều 304 Bộ luật Hình sự năm 2015 lại không có quy định về định lượng số đạn trong cấu thành tội phạm nên nay Hội đồng xét xử tiếp tục kiến nghị đến Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị cáo A và tên Ch về hành vi như vừa đã nêu.

[4] Xét chất ma túy là loại chất kích thích do Nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển và mua bán. Các bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai và vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, đều mang tính chất liều lĩnh, xem thường pháp luật, góp phần làm lan tràn nạn nghiện ngập trong đời sống cộng đồng, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương và có thể là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác, riêng bị cáo A còn có nhân thân xấu nên cần phải xử lý các bị cáo bằng một mức án thật nghiêm và tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo đã gây ra thì mới có đủ sức giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần được xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 và khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng”; do đó, các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa cho thấy các bị cáo đều không có nghề nghiệp và không có điều kiện kinh tế nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Xét về số tiền 1.500.000 đồng mà bị cáo Thủy bán ma túy cho bị cáo Anh có nhưng đã tiêu xài hết nên cần truy thu, buộc bị cáo Thủy nộp lại để sung quỹ Nhà nước.

[7] Về vật chứng: Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia, số thuê bao 0932928295 của bị cáo A dùng liên lạc với tên Ch mua súng, đạn; 01 chiếc điện thoại di động hiệu MI, số thuê bao 0901094895 của bị cáo Th có sử dụng liên lạc mua ma túy; 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone, số thuê bao 0939185927 của tên Ch dùng vào việc mua bán súng, đạn; số tiền 30.000.000 đồng cũng của tên Ch do bán súng, đạn trái phép với bị cáo A mà có nên cần tịch thu tất cả để sung quỹ Nhà nước. Còn đối với 01 khẩu súng ngắn màu đen, hiệu ZORAKI 906, số súng 000062 và 01 hộp tiếp đạn (băng đạn); 09 viên đạn bằng kim loại màu vàng có cùng ký hiệu SBP 7,65 của bị cáo A; 01 khẩu súng ngắn bằng kim loại hiệu MP9c, số súng MP18152274C, kèm theo 02 hộp tiếp đạn và 05 viên đạn có vỏ bằng kim loại màu vàng, đầu đạn bằng cao su màu đen, có cùng kích thước 22mm x 9mm, ký hiệu OZK 9mm P.A là vũ khí quân dụng và công cụ hỗ trợ nên cần giao cho Công an quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh quản lý. Riêng 01 gói niêm phong bên trong có 02 gói nylon chứa tinh thể không màu, bên ngoài có chữ ký ghi tên Tiêu Thanh Th, Trần Văn Thái (Điều tra viên), Trần Quang Ng (người chứng kiến), hình dấu Công an phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân, Tp.Hồ Chí Minh, chữ ký của giám định viên và cán bộ điều tra; 01 gói niêm phong bên trong có 03 gói nylon chứa tinh thể không màu, bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Huyền A, Nguyễn Ngọc Tuấn (Điều tra viên), Phạm Ngọc G (người chứng kiến), hình dấu Công an phường An Lạc, quận Bình Tân, Tp.Hồ Chí Minh, chữ ký của giám định viên và cán bộ điều tra đều là loại chất kích thích, Nhà nước cấm sử dụng; 01 gói nylon màu đen có ghi chữ RAPTURE; 01 cái hộp bằng nhựa màu trắng; 01 cái cân điện tử; 01 cái bình nhựa có ống hút nhựa, ống thủy tinh dùng để sử dụng ma túy;

01 túi nylon màu trắng có chữ “1 đổi 1 trong vòng 1 tháng cho điện thoại lỗi- thegioididong”; 01 hộp giấy, có khai đựng đạn bằng nhựa màu xanh; 09 ống thủy tinh một đầu tròn và 01 cái túi xách có quai xách bằng vải của các bị cáo có liên quan đến hành vi phạm tội, mua bán súng, đạn, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tất cả để tiêu hủy.

[8] Các bị cáo Tiêu Thanh Th và Nguyễn Huyền A phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Tiêu Thanh Th phạm “Tội mua bán trái phép chất ma túy” và bị cáo Nguyễn Huyền A phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Về điều luật áp dụng và xử hình phạt:

. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Tiêu Thanh Th 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 23- 12-2019.

. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Nguyễn Huyền A 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 23-12-2019.

- Về số tiền do bán ma túy mà có: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, buộc bị cáo Tiêu Thanh Th nộp lại số tiền 1.500.000 (một triệu năm trăm nghìn) đồng để sung quỹ Nhà nước.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015. Tịch thu sung quỹ Nhà nước gồm: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia, số thuê bao 0932928295; 01 chiếc điện thoại di động hiệu MI, số thuê bao 0901094895; 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone, số thuê bao 0939185927 và số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng. Giao cho Công an quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh quản lý gồm: 01 khẩu súng ngắn màu đen, hiệu ZORAKI 906, số súng 000062 và 01 hộp tiếp đạn (băng đạn); 09 viên đạn bằng kim loại màu vàng có cùng ký hiệu SBP 7,65; 01 khẩu súng ngắn bằng kim loại hiệu MP9c, số súng MP18152274C, kèm theo 02 hộp tiếp đạn và 05 viên đạn có vỏ bằng kim loại màu vàng, đầu đạn bằng cao su màu đen, có cùng kích thước 22mm x 9mm, ký hiệu OZK 9mm P.A. Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 gói niêm phong bên trong có 02 gói nylon chứa tinh thể không màu, bên ngoài có chữ ký ghi tên Tiêu Thanh Th, Trần Văn Thái (Điều tra viên), Trần Quang Ng (người chứng kiến), hình dấu Công an phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân, Tp.Hồ Chí Minh, chữ ký của giám định viên và cán bộ điều tra; 01 gói niêm phong bên trong có 03 gói nylon chứa tinh thể không màu, bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Huyền A, Nguyễn Ngọc Tuấn (Điều tra viên), Phạm Ngọc G (người chứng kiến), hình dấu Công an phường An Lạc, quận Bình Tân, Tp.Hồ Chí Minh, chữ ký của giám định viên và cán bộ điều tra; 01 gói nylon màu đen có ghi chữ RAPTURE; 01 cái hộp bằng nhựa màu trắng;

01 cái cân điện tử; 01 cái bình nhựa có ống hút nhựa, ống thủy tinh dùng để sử dụng ma túy; 01 túi nylon màu trắng có chữ “1 đổi 1 trong vòng 1 tháng cho điện thoại lỗi-thegioididong”; 01 hộp giấy, có khai đựng đạn bằng nhựa màu xanh; 09 ống thủy tinh một đầu tròn và 01 cái túi xách có quai xách bằng vải.

(Vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân đang tạm giữ theo các Phiếu nhập kho số NK20/183TAM ngày 28/5/2020 và số NK20/190TAM ngày 05/6/2020; riêng số tiền 30.000.000 đồng được Công an quận Bình Tân gửi vào Ngân hàng AGRIBANK-Chi nhánh Bình Tân theo tài khoản số 3949.0.9061703.00000 ngày 07/4/2020)

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các bị cáo Tiêu Thanh Th và Nguyễn Huyền A mỗi người phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Các bị cáo Tiêu Thanh Th và Nguyễn Huyền A có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Vì Thành Ch vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 229/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:229/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Tân - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về