TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 229/2020/HS-ST NGÀY 24/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hà Đông, T phố Hà Nội đã xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 232/2020/HSST ngày 30/10/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 212/2020/QĐXX –HS ngày 04/11/2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Phạm Văn T, sinh năm 1987; HKTT: Số 3, LB 2, phường N, quận L, T phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo, đảng phái: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 8/12; Bố đẻ: Phạm Văn S, sinh năm 1963; Mẹ đẻ: Nguyễn Thanh H, sinh năm 1963; Vợ: Phạm Thúy H, sinh năm 1983; Có 02 con, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2014; Danh chỉ bản số 458 Công an quận Hà Đông lập ngày 22/7/2020.
Tiền sự: Không;
Tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 112/HSST ngày 19/5/2017 của Tòa án nhân dân quận Long Biên, T phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù, về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/5/2019.
Nhân thân:
1. Bản án hình sự sơ thẩm số 531/HSST ngày 22/7/2004 của Tòa án nhân dân T phố Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội Cướp tài sản và 06 tháng tù về tội Cưỡng đoạt tài sản. Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội là 30 tháng tù, chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/8/2006, đã xóa án tích.
2. Bản án hình sự sơ thẩm số 06/HSST ngày 21/01/2011 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì, T phố Hà Nội xử phạt 36 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/4/2013, đã xóa án tích.
3. Bản án hình sự sơ thẩm số 465/HSST ngày 30/9/2011 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, T phố Hà Nội xử phạt 06 tháng tù về tội: Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, tổng hợp với hình phạt 36 tháng tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 06/HSST ngày 21/01/2011 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì, T phố Hà Nội. Tổng hợp hình phạt chung của 2 bản án 42 tháng tù, chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/4/2013, đã xóa án tích.
Bị cáo bị bắt quả tang ngày 22/7/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 Công an T phố Hà Nội. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Đỗ Ngọc H, sinh năm 1983, hộ khẩu thường trú: Số 7D2, tổ dân phố 5, phường P, quận Hà Đông, T phố Hà Nội. có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ 00 ngày 21/07/2020, Phạm Văn T, sinh năm 1987, HKTT: số 3, L B 2, phường N, quận L, T phố Hà Nội đi bộ từ nhà ra khu vực cầu L với mục đích tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Khi đến nơi, T gặp và mua của một người nam giới không quen biết khoảng 30 tuổi, nhìn giống người sử dụng ma túy 01 gói giấy màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng (ma túy heroin) với giá 200.000 đồng. Sau đó, T cất gói ma túy vào túi quần sooc bên phải đang mặc rồi đi xe taxi đến quận Hà Đông. Khoảng 00 giờ ngày 22/07/2020, T đến nhà Đỗ Ngọc H, sinh năm 1983, hộ khẩu thường trú: Số 7D2, tổ dân phố 5, phường P, quận Hà Đông, T phố Hà Nội (là bạn quen biết), T mượn chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave @, sơn màu trắng- đen-bạc, BKS 29T1-707.xx (khi đi T nói với H là mượn xe để đi giải quyết việc cá nhân). Sau khi mượn được xe của H, T điều khiển xe đi tìm nơi sử dụng ma túy. Hồi 01 giờ 00 phút cùng ngày, khi đi đến trước cửa số nhà 203 đường Phùng Hưng, Phúc La, Hà Đông thì bị lực lượng Công an phường Phúc La, quận Hà Đông kiểm tra hành chính, phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.
Vật chứng thu giữ: thu của T 01(một) gói giấy màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng, nghi là ma túy và 01(một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave @, sơn màu trắng-đen- bạc, BKS 29T1-707.xx, số khung 304xxx; số máy:7304xxx, đã qua sử dụng.
Ngày 22/07/2020 Cơ quan Điều tra công an quận Hà Đông ra quyết định trưng cầu giám định đối với 01(một) gói giấy màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng, nghi là ma túy đã thu giữ của Phạm Văn T.
Tại bản kết luận giám định số 67940/KLGĐ-PC09 ngày 28/7/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an T phố Hà Nội, kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy màu trắng là ma túy loại Heroin, khối lượng 0,152 gam.
Cáo trạng số 233/CT-VKS-HĐ ngày 30/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông đã truy tố Phạm Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt Phạm Văn T từ 24 đến 30 tháng tù. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo. Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy niêm phong trong 01 phong bì dán kín, mép dán có chữ ký của Phạm Văn T, cán bộ Nguyễn Văn H1 và giám định viên Nguyễn Thị Th.
Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội và xin hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng hình phạt nhẹ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử thấy quá trình điều tra, truy tố Điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Về nội dung: Có đủ cơ sở khẳng định: Hồi 00 giờ 40 phút ngày 22/7/2020, tại trước cửa số nhà 203 Phùng Hưng, Phúc La, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, Phạm Văn T đang có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy loại Heroin, khối lượng 0,152 gam để sử dụng thì bị lực lượng Công an phường Phúc La phát hiện bắt quả tang. Hành vi của Phạm Văn T đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm hại chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước mà còn là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội.
Bị cáo có nhân thân xấu từng bị kết án về nhiều tội phạm, trong đó có 03 tiền án được xóa án tích, 01 tiền án mới chấp hành xong hình phạt tù tháng 5/2019 bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, thuộc trường hợp tái phạm, thể hiện thái độ coi thường pháp luật. Do đó, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo và đảm bảo răn đe, phòng ngừa chung.
Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét đến thái độ khai báo T khẩn của bị cáo là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Bị cáo không có thu nhập ổn định do đó không áp dụng hình phạt bổ sung.
[3] Về nguồn gốc ma túy thu giữ và đối tượng bán cho Phạm Văn T: Phạm Văn T khai mua của 01(một) người đàn ông không quen biết tại khu vực đầu cầu Long Biên, thuộc quận Long Biên, T phố Hà Nội. Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, ngoài lời khai của Phạm Văn T không có tài liệu chứng cứ khác nên Cơ quan điều tra chưa có cơ sở để điều tra làm rõ.
[4] Đối với 01(một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave @ màu trắng- đen- bạc, BKS: 29T1-707.xx, số khung 304xxx; số máy:7304xxx, đã qua sử dụng, thu giữ nêu trên của Phạm Văn T. Kết quả điều tra xác định: chiếc xe thuộc sở hữu của anh Đỗ Ngọc H, sinh năm 1983, hộ khẩu thường trú: Số 7D2, tổ dân phố 5, phường P, quận Hà Đông, T phố Hà Nội; không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Ngày 21/07/2020, T mượn chiếc xe máy của H làm phương tiện đi lại, H không biết T tàng trữ, sử dụng ma túy. Ngày 14/9/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hà Đông đã ra quyết định xử lý vật chứng số 101 ngày 14/9/2020, trả lại chiếc xe máy trên cho anh H, là có căn cứ pháp luật.
[5] Về vật chứng:
+ Số ma túy trong 01 phong bì CATP Hà Nội, các mép dán có chữ ký của đối tượng Phạm Văn T, cán bộ CAP Phúc La: Nguyễn Văn H1 và giám định viên Nguyễn Thị Th là vật thuộc loại cấm lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy.
[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 về án phí, lệ phí toà án;
1. Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/7/2020.
3. Xử lý vật chứng:
- Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì CATP Hà Nội, các mép dán có chữ ký của đối tượng Phạm Văn T, cán bộ CAP Phúc La: Nguyễn Văn H1 và giám định viên Nguyễn Thị Th.
(Vật chứng đã được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự quận Hà Đông theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 10/11/2020) 4. Bị cáo Phạm Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 229/2020/HS-ST ngày 24/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 229/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về