TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 229/2020/HNGĐ-ST NGÀY 10/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 10 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 61/2020/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 02 năm 2020, về việc “Tranh chấp về ly hôn; Nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 85/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 01/6/2020, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Thị S, sinh năm 1995;
Nơi cư trú: Ấp H, xã M, huyện C, Kiên Giang.
2. Bị đơn: Anh Trần Minh L, sinh năm 1990;
Nơi cư trú: Tổ 06, ấp V, xã V, huyện T, An Giang. (Vắng mặt bị đơn, đã tống đạt hợp lệ)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn chị Thị S và lời khai tại phiên tòa có nội dung như sau: Chị Thị S sống chung với anh Trần Minh L từ năm 2010, hôn nhân xây dựng trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Uỷ ban nhân dân xã C (giấy đăng ký kết hôn số 108 ngày 01/7/2014). Vợ chồng chung sống hạnh phúc và có được 02 con chung tên Trần Thị T sinh ngày 16/02/2011 và Trần Thị Bảo C sinh ngày 02/12/2014, hiện tại các con đang sống chung với chị S. Thời gian gần đây vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên cãi nhau nên cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc nên cả hai đã sống ly thân.
Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị Thị S yêu cầu được ly hôn với anh Trần Minh L; Về con chung chị S yêu cầu được tiếp tục nuôi, không yêu cầu anh L cấp dưỡng; Về tài sản không yêu cầu giải quyết.
* Về phía bị đơn anh Trần Minh L thì: Toà án đã nhiều lần gửi Thông báo đến gia đình nhằm tạo điều kiện hoà giải đoàn tụ và hàn gắn quan hệ vợ chồng giữa hai người nhưng anh L đã vắng mặt không lý do. Qua chứng cứ thu thập được thì anh Trần Minh L có nơi cư trú tại Tổ 06, ấp V, xã V, huyện T, An Giang; Hiện tại anh L không thường xuyên có mặt tại nhà, những Thông báo của Tòa án gửi thì gia đình đều ký nhận nhưng đều không có mặt. Vì vậy, Tòa án đã thông qua Thừa phát lại thực hiện các thủ tục tố tụng theo quy định pháp luật để mở phiên tòa xét xử.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ kiện và được thẩm tra tại phiên tòa, qua tranh luận công khai tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận xét như sau:
[1] Về tố tụng: Đây là tranh chấp hôn nhân gia đình về xin ly hôn và nuôi con, căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân huyện Châu Thành thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền. Tại phiên tòa, bị đơn anh Trần Minh L vắng mặt lần thứ hai, căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành phiên tòa.
Về nội dung:
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Thị S đã thừa nhận có sống chung như vợ chồng với anh Trần Minh L từ năm 2010 và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật; Nay do mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, cuộc sống chung không phù hợp nên chị S xin được ly hôn với anh L. Xét thấy, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp phù hợp với quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình 2014; Cuộc sống hôn nhân vợ chồng là nhằm xây dựng một gia đình thật sự hạnh phúc, vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc và quan tâm lẫn nhau nhưng quan hệ vợ chồng giữa chị S và anh L đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, tình cảm vợ chồng không còn tồn tại, Tòa án nhiều lần mời anh Trần Minh L để hòa giải cho anh chị đoàn tụ nhưng anh L không còn quan tâm đến cuộc sống vợ chồng, vẫn không có mặt. Như vậy, quan hệ vợ chồng giữa anh, chị đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân giữa hai người không đạt được nên căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân gia đình nên chấp nhận yêu cầu của chị Thị S là được ly hôn với anh Trần Minh L.
[3] Về quan hệ con cái, cấp dưỡng: Chị Thị S thừa nhận 02 cháu Trần Thị T sinh ngày 16/02/2011 và Trần Thị Bảo C sinh ngày 02/12/2014 là con chung của chị và anh Trần Minh L và giấy khai sinh của các cháu cũng đã thể hiện điều này, do đó cần công nhận các cháu là con chung của chị S và anh L, đồng thời tại phiên tòa phía chị S có yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung. Xét thấy, từ khi anh chị không còn sống chung nữa thì 02 cháu đã sống chung với chị S và cháu Trần Thị T có nguyện vọng sống chung với mẹ; Do đó, để ổn định tâm lý và cuộc sống cho 02 cháu nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của chị Thị S là được tiếp tục nuôi 02 con chung. Ngoài ra, phía chị Thị S không yêu cầu anh Trần Minh L cấp dưỡng nuôi con, đây là sự tự nguyện và phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét, tuy nhiên khi điều kiện kinh tế và điều kiện nuôi con có thay đổi thì các bên có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con, cấp dưỡng trong một vụ kiện khác.
[4] Về quan hệ tài sản, nợ chung: Các bên tự thỏa thuận và không yêu cầu giải quyết.
[5] Về án phí, lệ phí sơ thẩm: Do chị Thị S có yêu cầu ly hôn với anh Trần Minh L nên phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ các Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân gia đình 2014; Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 177, khoản 2 Điều 227, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Điểm a khoản 5 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.
- Xử:
* Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Thị S là được ly hôn với anh Trần Minh L. Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 108 do Uỷ ban nhân dân xã C cấp ngày 01/7/2014 không còn giá trị pháp lý.
* Về quan hệ con cái, cấp dưỡng:
+ Giao 02 cháu Trần Thị T sinh ngày 16/02/2011 và Trần Thị Bảo C sinh ngày 02/12/2014 cho chị Thị S được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục (hiện 02 cháu T và C đang sống chung với chị S);
+ Anh Trần Minh L không phải cấp dưỡng nuôi con cho chị Thị S; Chị Thị S phải tạo điều kiện cho anh Trần Minh L được thăm nom và chăm sóc con.
* Về quan hệ tài sản, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.
* Về án phí, lệ phí sơ thẩm: Chị Thị S phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân sơ thẩm, đã nộp tạm ứng án phí 300.000đ theo biên lai thu số 0006708 ngày 20/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, An Giang; Được khấu trừ nên chị Thị S đã nộp xong.
Báo cho đương sự có mặt tham dự phiên tòa biết có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người vắng mặt tại phiên tòa hoặc khi tuyên án (có lý do chính đáng) có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày tống đạt bản án hợp lệ, để yêu cầu xét xử phúc thẩm.
Bản án 229/2020/HNGĐ-ST ngày 10/07/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con
Số hiệu: | 229/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 10/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về