Bản án 229/2019/HS-ST ngày 18/09/2020 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 229/2019/HS-ST NGÀY 18/09/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 18 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 234/2020/TLST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 246/2020/QĐ – HSST ngày 21/8/2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: NCH, Sinh năm: 1985; HKTT: Phố M, ĐN, TS, BN; Chỗ ở: Như trên; Văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Giới Th: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: NCH – Chết; Con bà: NTH -SN: 1958; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ ba; Vợ: ĐTN -SN: 1990; Có 02 con SN 2013 và 2015; TATS: 01 tiền sự ngày 18/12/2018 Công an thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh xử phạt hành chính về hành vi Đánh bạc Bị cáo bị bắt khẩn cấp và tạm giữ từ ngày 18/3/2020 đến ngày 27/3/2020 được áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Bị cáo có mặt) 2. Họ và tên: NTT, Sinh năm: 1985; HKTT: CG, ĐN, TS, BN; Chỗ ở: Như trên; Văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Giới Th: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: NVM– SN: 1959; Con bà: NTL -SN: 1960; Vợ: NTL-SN: 1985; Có 03 con SN 2009, 2010, 2013; TATS: không:

Bị cáo bị bắt khẩn cấp và tạm giữ từ ngày 18/3/2020 đến ngày 27/3/2020 được áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú.(Bị cáo có mặt) 3. Họ và tên: NXH, Sinh năm: 1987; HKTT: Khu phố 3 CG, ĐN, TS, BN; Chỗ ở: như trên; Văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới Th: Nam;Tôn giáo: Không; Con ông: NXH- Chết; Con bà: TTC - SN: 1966; Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ hai; Vợ: TTQA-SN: 1993; Có 01 con SN 2017, 2019; TATS: 01 tiền án (đã xóa án tích).

Bản án số 16/HSST ngày 26/01/2015 TAND quận Hoàng Mai, Hà Nội xử phạt 10 tháng tù cho hưởng án treo thời hạn thử thách 20 tháng kể từ ngày tuyên án. Tài liệu xác minh thi hành án thể hiện NXH đã nộp 200.000 đồng án phí HSST ngày 26/01/2015-BL81.

Bị cáo tự thú và bị tạm giữ từ ngày 18/3/2020 đến ngày 27/3/2020 được áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Bị cáo có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 18/3/2020, NXH (SN: 1987, trú tại: Khu phố 3, CG, ĐX, TS, BN) đến Công an quận Long Biên, Hà Nội tự thú về việc H có hành vi đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá và mua số lô, số đề qua mạng Internet bằng tài khoản 8U620022006 do NTT (SN: 1985, trú tại: CG, ĐN, TS, BN) cung cấp tài khoản.

Từ lời khai của NXH, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Long Biên đã tiến hành điều tra, triệu tập các đối tượng có liên quan để làm rõ. Cụ thể như sau Khoảng tháng 3/2020, NCH quen biết với đối tượng tên T (không xác định được nhân thân, lai lịch) và được T rủ tham gia vào đường dây tổ chức đánh bạc qua mạng Internet để hưởng lợi, H đồng ý. Sau đó, T cấp cho H tài khoản quản lý cá cược cấp trên là 8U6200, mật khẩu Abcd1234, hạn mức 100.000 đô, quy ước 01đô tương đương với 8.000 đồng. T trực tiếp nhập tài khoản đó vào máy của H và hẹn khi nào có khách sẽ thanh toán tiền vào thứ hai hàng tuần. Sau khi nhận được tài khoản 8U6200 từ T, H đã tạo thành tài khoản 8U620022, mật khẩu Abcd1234, với hạn mức 5000 đô, quy ước 1 đô tương đương với 10.000 đồng để cấp cho NTT để hưởng lợi 2.000 đồng/01 đô thua trong tài khoản. Hằng ngày H là người trực tiếp thanh toán tiền thắng thua với TH sau đó H sẽ thanh toán lại với T vào thứ hai hàng tuần bằng tiền mặt. H cấp tài khoản cho TH vào ngày 16/3/2020, đến ngày 18/3/2020 thì bị Cơ quan điều tra phát hiện, bắt giữ nên chưa kịp thanh toán tiền với T. TH sau khi nhận được tài khoản 8U620022 đã giao lại cho NXH với hạn mức 5.000 đô, quy ước 1 đô tương đương với 30.000 đồng để hưởng chênh lệch 20.000 đồng/1 đô thua trong tài khoản. H sử dụng chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu hồng để liên lạc chuyển giao tài khoản đánh bạc giữa H và TH, xác nhận tiền đánh bạc thắng thua từ H và TH rồi thanh toán bằng tiền mặt giữa hai bên để nhận lại hoặc bù thêm phần chênh lệch.

NXH sau khi nhận tài khoản 8U620022 từ TH đã đăng nhập vào trang web “Agbong88.com” để tạo thành tài khoản cá cược con là 8U620022006 với hạn mức 1.000 đô. H đã sử dụng chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 truy cập vào trang web “bong88.com” để tham gia đặt cược tại nhiều trận bóng đá thuộc các giải đấu trên thế giới và mua số lô, số đề với thời gian quay thưởng trên trang web chậm hơn 11 tiếng so với thời gian TH tế tại Việt Nam. Với hình thức cá độ bóng đá, H sẽ đặt cược bằng tiền đô ảo vào các kèo cá độ với những tỷ lệ có sẵn, kết quả thắng thua sẽ được dựa trên thể lệ kèo và được thua bằng tiền đô ảo sau khi kết thúc trận đấu. Với hình thức mua số lô, số đề, H sẽ sử dụng tiền đô ảo mua các cặp số lô xiên với quy ước mua cặp Xiên 2 số nếu thắng sẽ được gấp 16 lần số tiền đã mua, cặp Xiên 3 số nếu thắng sẽ được 70 lần số tiền đã mua, cặp Xiên 4 số nếu thắng sẽ được 268 lần số tiền đã mua. Kết quả thắng thua sẽ được dựa trên kết quả xổ số kiến thiết miến Bắc theo thời gian mua số lô, số đề trên trang web “Bong88.com” của H cộng thêm 11 tiếng, nếu trong các cặp số lô Xiên mà H đã mua có toàn bộ các số trùng với 02 (Hai) số cuối cùng của của 27 (Hai mươi bảy) giải quay thưởng thì sẽ thắng và nhận về tiền đô ảo theo quy ước. H khai ngoài tài khoản 8U620022006 mà H tạo ra để tham gia đánh bạc, H không tạo thành bất kỳ tài khoản nào khác để chơi hay cấp cho bất kỳ ai. Đến cuối ngày, tiền đô ảo thắng thua trong tài khoản của H sẽ được thanh toán trực tiếp với TH với quy ước 01 đô ảo tương đương với 30.000 đồng tiền mặt.

Cơ quan điều tra đã tiến hành in sao kê tài khoản “8U620022006” của NXH. Cụ thể như sau:

*Hình thức mua số lô, số đề:

-Ngày 17/03/2020, H mua cặp lô 01 – 04 – 68 với số tiền tham gia đặt cược là 2 đô tương đương 60.000 đồng, cặp lô 25 – 27 – 52 – 72 với số tiền tham gia đặt cược là 2 đô tương đương 60.000 đồng, cặp lô 27 – 52 – 72 với số tiền tham gia đặt cược là 2 đô tương đương 60.000 đồng, cặp lô 25 – 27 – 72 với số tiền tham gia đặt cược là 2 đô tương đương 60.000 đồng, cặp lô 25 – 52 – 72 với số tiền tham gia đặt cược là 2 đô tương đương 60.000 đồng, cặp lô 25 – 27 – 52 với số tiền tham gia đặc cược là 2 đô tương đương 60.000 đồng, cặp lô 22 – 27 – 72 với số tiền tham gia đặt cược là 2 đô tương đương 60.000 đồng, cặp lô 22 – 25 – 52 với số tiền tham gia đặt cược là 2 đô tương đương 60.000 đồng, cặp lô 52 – 72 với số tiền tham gia đặt cược là 4 đô tương đương 120.000 đồng, cặp lô 27 – 52 với số tiền tham gia đặt cược là 4 đô tương đương 120.000 đồng, cặp lô 25 – 72 với số tiền tham gia đặt cược là 4 đô tương đương 120.000 đồng, cặp lô 25 – 27 với số tiền tham gia đặt cược là 4 đô tương đương 120.000 đồng, cặp lô 22 – 72 với số tiền tham gia đặt cược là 4 đô tương đương 120.000 đồng, cặp lô 22 – 27 với số tiền tham gia đặt cược là 4 đô tương đương 120.000 đồng, cặp lô 27 – 72 với số tiền tham gia đặt cược là 4 đô tương đương 120.000 đồng, cặp lô 22 – 52 với số tiền tham gia đặt cược là 4 đô tương đương 120.000 đồng, cặp lô 22 – 25 với số tiền tham gia đặt cược là 4 đô tương đương 120.000 đồng, cặp lô 25 – 52 với số tiền tham gia đặt cược là 4 đô tương đương 120.000 đồng. Tổng số tiền H bỏ ra mua số lô, đề ngày 17/3/2020 là 1.680.000 đồng Căn cứ kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc ngày 17/3/2020, H thắng ở cặp 25 – 27 – 72 số tiền bỏ ra chơi bạc là 2 đô tương đương 60.000 đồng x 70 = 4,200,000 đồng, cặp 25 -72 số tiền chơi bạc là 4 đô tương đương 120.000 đồng x 16 = 1,920,000 đồng, cặp 25 – 27 số tiền chơi bạc là 4 đô tương đương 120.000 đồng x 16 = 1,920,000 đồng, cặp 27 – 72 số tiền chơi bạc là 4 đô tương đương 120.000 đồng x 16 = 1,920,000 đồng. Tổng số tiền H thắng bạc là 9.960.000 đồng.

Vậy tổng số tiền tham gia đánh bạc của H dưới hình thức mua số lô, số đề vào ngày 17/3/2020 là 1.680.000 + 9.960.000 = 11.640.000 đồng.

- Ngày 18/3/2020, H mua cặp lô 42 – 77 với số tiền cược là 3 đô tương đương với 90.000 đồng, cặp lô 51 – 56 – 78 với số tiền cược là 2 đô tương đương với 60.000 đồng, cặp lô 06 – 37 – 60 – 73 với số tiền tham gia đặt cược là 2 đô tương đương với 60.000 đồng, cặp lô 37 – 60 – 73 với số tiền tham gia đặt cược là 2 đô tương đương với 60.000 đồng, cặp lô 06 – 37 – 73 với số tiền tham gia đặt cược là 2 đô tương đương với 60.000 đồng, cặp lô 06 – 60 – 73 với số tiền tham gia đặt cược là 2 đô tương đương với 60.000 đồng, cặp lô 06 – 37 – 60 với số tiền tham gia đặt cược là 2 đô tương đương với 60.000 đồng, cặp lô 60 – 73 với số tiền tham gia đặt cược là 4 đô tương đương với 120.000 đồng, cặp lô 37 – 60 với số tiền tham gia đặt cược là 4 đô tương đương 120.000 đồng, cặp lô 06 – 73 với số tiền tham gia đặt cược là 4 đô tương đương với 120.000 đồng, cặp lô 06 – 37 với số tiền tham gia đặt cược là 4 đô tương đương với 120.000 đồng, cặp lô 37 – 73 với số tiền tham gia đặt cược là 4 đô tương đương với 120.000 đồng, cặp lô 06 – 60 với số tiền tham gia đặt cược là 4 đô tương đương 120.000 đồng.

Căn cứ kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc ngày 18/3/2020, H thua toàn bộ các cặp lô đã mua trên. Vậy tổng số tiền tham gia đánh bạc của H dưới hình thức mua số lô, số đề vào ngày 18/3/2020 là 1,170,000 đồng.

*Hình thức cá độ bóng đá: Ngày 16/3/2020 và 17/3/2020 H tham gia cá độ tại 10 kèo cá độ thuộc 07 trận bóng đá khác nhau trong đó toàn bộ 07 trận đều có tổng số tiền tham gia đánh bạc dưới 5.000.000 đồng. Cụ thể:

 STT

Ngày đánh bạc

 Trận đấu bóng đá

Số tiền đánh bạc

Quy đổi sang VNĐ

Thắng - thua

Quy đổi sang VNĐ

 1

 16/3/2020

Rosario Central - Colon de Santa Fe

 30

 900.000

 -30

 -900.000

 2

 16/3/2020

Chacarita Juniors - Club Almagro

 30

 900.000

 -30

 -900.000

 3

 16/3/2020

Guarani SP - Ponte Preta SP

 10

 300.000

 8.5

 255.000

 4

 16/3/2020

Deportes Temuco - San Marcos de Arica

 10

 300.000

 -10

 -300.000

 5

 16/3/2020

Forca e Luz RN - Potiguar Mossoro RN

 10

 300.000

 -10

 -300.000

 

 16/3/2020

Altinordu - Balikesirspor

 20

 600.000

 16

 480.000

 7

 17/3/2020

Union San Felipe - Deportes Santa Cruz

 16

 480.000

 15.2

 456.000

Tổng

126

3.780.000

39,7

1.191.000

 Xác định số tiền tham gia đánh bạc của NXH tại tài khoản trên 592,7 đô tương ứng số tiền là 17.781.000 đồng trong đó số tiền H phải chịu trách nhiệm hình sự là 11.640.000 đồng. Số tiền mà NXH hưởng lợi từ việc tham gia đánh bạc theo hình thức lô, đề là 8.280.000 đồng; theo hình thức cá độ bóng đá là 1.191.000 đồng.

NTT do chuyển tài khoản chênh lệch 20.000 đồng/1 đô nên xác định tại tài khoản trên TH đã thua 207 đô tương ứng số tiền 4.140.000 đồng; số tiền H thắng bạc là 371,7 đô (bao gồm 140 đô lô xiên 3 của dãy số 25 – 27 – 72; 64 đô lô xiên 2 của dãy số 25 – 27 ; 64 đô lô xiên 2 của dãy số 27 – 72; 64 đô lô xiên 2 của dãy số 25 -72 và 39,7 đô thắng bạc ở hình thức cá độ bóng đá) tương ứng với số tiền là 7.434.000 đồng. TH phải chịu trách nhiệm hình sự đối với số tiền tổ chức đánh bạc là 11.151.000 đồng.

Số tiền tổ chức đánh bạc của NTT phải chịu trách nhiệm hình sự là 11.151.000 đồng.

Đối với NCH, do chưa xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng tên T nên xác định NCH chuyển tài khoản chơi bạc cho NTT với hạn mức 5000 đô, quy ước 10.000 đồng/ 01 đô nên xác định tại tài khoản trên H đã thua 207 đô tương ứng với số tiền 2.070.000 đồng. Số tiền tổ chức đánh bạc của NCH phải chịu trách nhiệm hình sự 592,7 đô (gồm 221 đô H dùng để chơi bạc và 371,7 đô H thắng bạc ở cả 2 hình thức lô đề và cá độ bóng đá) là 5.927.000 đồng.

Cơ quan CSĐT-Công an quận Long Biên đã tạm giữ:

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu đen của NXH.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu hồng của NTT .

Đối với đối tượng T hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch do vậy chưa có đủ căn cứ xử lý, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với hành vi tham gia đánh bạc tại 07 trận đấu bóng đá có tổng số tiền đánh bạc từng trận dưới 5.000.000 đồng vào ngày 16,17/3/2020 và mua số lô, số đề có tổng số tiền dưới 5.000.000 đồng vào ngày 18/3/2020 của NXH, Công an quận Long Biên đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với H là có căn cứ quy định tại khoản 1; điểm c khoản 2 Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐCP ngày 12/11/2013.

Tại Cơ quan điều tra các bị can khai nhận như trên, phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số: 231/CT - VKS ngày 12/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã truy tố các bị cáo NCH, NTT về tội Tổ chức đánh bạc quy định tại điểm c khoản 2 Điều 322 của Bộ luật hình sự; bị cáo NXH về tội Đánh bạc quy định tại điểm c khoản 2 Điều 321 Bộ luật hình sự:

Tại phiên tòa: Các bị cáo NCH, NTT, NXH đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như các lời khai tại cơ quan điều tra và theo đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Các bị cáo đều xác nhận chưa thanh toán tiền cho nhau.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Long Biên giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:1 Qua phần tranh tụng công khai trước phiên tòa cũng như tài liệu có trong hồ sơ của cơ quan CSĐT - Công an quận Long Biên đã thu thập đủ căn cứ xác định:

Ngày 16/3/2020, NCH, NTT có hành vi tổ chức đánh bạc trái phép sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức cấp tài khoản trên mạng Internet cho NXH. Ngày 17/3/2020, NXH có hành vi đánh bạc trái phép sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức mua số lô, số đề trên mạng Internet do NCH và NTT cung cấp tài khoản. Số tiền H phải chịu trách nhiệm hình sự là 11.640.000 đồng.

Hành vi của NCH và NTT là hành vi tổ chức đánh bạc nH xét thấy hành vi này không thuộc trường hợp quy định từ điểm a đến điểm đ khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự do vậy căn cứ vào Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC xác định hành vi này của NCH và NTT đồng phạm với NXH về tội Đánh bạc quy định điểm c khoản 2 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý xâm phạt trật tự công cộng, nếp số văn hóa mới, gây mất trật tự trị an tại địa phương vì vậy cần phải xử lý nghiêm khắc.

Điều 321 khoản 2 điểm c Bộ luật hình sự quy định:

1. "Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm".

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

c) Sử dụng mạng internet, mạng máy Tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội.

Về nhân thân của các bị cáo:

- Bị cáo NCH có 01 tiền sự hết thời hiệu.

- Bị cáo NTT: chưa TATS.

- Bị cáo NXH có 01 tiền án năm 2015 về tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (đã được xóa án tích) Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

- Bị cáo NCH là lao động chính duy nhất có vợ và 02 con nhỏ được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Bị cáo NXH được áp dụng thêm tình tiết người phạm tội tự thú quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo NTT được áp dụng thêm tình tiết người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

-Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17; Điều 65 BLHS đề nghị tuyên phạt:

Bị cáo NCH về tội Đánh bạc, mức án 36 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 60 tháng kể từ ngày tuyên án.

-Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 321; điểm s,t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 65 BLHS đề nghị tuyên phạt:

Bị cáo NTT về tội Đánh bạc, mức án 36 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 60 tháng kể từ ngày tuyên án.

-Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 321; điểm s,r khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17; Điều 65 BLHS đề nghị tuyên phạt:

Bị cáo NXH về tội Đánh bạc, mức án 36 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 60 tháng kể từ ngày tuyên án.

-Hình phạt bổ sung: không áp dụng

- Về tang vật: áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS đề nghị tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu đen, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu hồng.

Nói lời sau cùng, các bị cáo nhận thức hành vi của mình là sai, vi phạm pháp luật và xin được hưởng lượng khoan hồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã TH hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thành khẩn nhận tội và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Xét lời khai nhận của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ và nội dung Cáo trạng của Viện Kiểm sát đã truy tố.

[2.1] Về hành vi đánh bạc của NXH: Ngày 17/3/2020, tại tài khoản 8U620022006, NXH đã đánh bạc dưới hình thức đánh lô đề với NTT (quy đổi 01 đô bằng 30.000 đồng). Tổng số tiền H bỏ ra mua số lô, đề ngày 17/3/2020 là 1.680.000 đồng, số tiền H thắng bạc là 9.960.000 đồng nH chưa được thanh toán. Tổng số tiền tham gia đánh bạc của H dưới hình thức mua số lô, số đề vào ngày 17/3/2020 là 1.680.000 + 9.960.000 = 11.640.000 đồng.

[2.2] Về hành vi tổ chức đánh bạc của NCH và NTT:

NCH tổ chức đánh bạc cho NTT bằng hình thức tạo tài khoản 8U620022, mật khẩu Abcd1234 với hạn mức 5000 đô, quy ước 1 đô tương ứng 10.000 đồng. NTT tiếp tục giao tài khoản 8U620022 với hạn mức 5.000 đô, quy ước 1 đô tương ứng với 30.000 cho NXH. H nhận tài khoản từ TH và tạo thành tài khoản con là 8U620022006 với hạn mức 1.000 đô. H đã sử dụng tài khoản này để chơi đánh bạc với hình thức lô đề là 98 đô và 126 đô với hình thức cá độ bóng đá. Trong đó 7 trận cá độ bóng đá có số tiền đánh bạc dưới 5.000.000 đồng; và hành vi đánh bạc ngày 18/3/2020 với hình thức lô đề với số tiền đánh bạc cũng dưới 5.000.000 đồng. Vì vậy, các bị cáo H và TH chỉ phải chịu trách nhiệm cho lần đánh bạc bằng hình thức lô đề của NXH vào ngày 17/3/2020 với số tiền đánh bạc là 11.640.000 đồng.

Hành vi tổ chức đánh bạc của NCH và NTT không thỏa mãn các cấu thành cơ bản được quy định từ điểm a đến điểm đ khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự nên không phạm tội tổ chức đánh bạc với tình tiết sử dụng mạng Internet để phạm tội theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 322 Bộ luật hình sự.

Theo khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 và Điều 249 (nay là Điều 321 và Điều 322) quy định: “Người tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thuộc trường hợp chưa đến mức được hướng dẫn tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều này, nếu tổng số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng thì tuy họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về “tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc” nH họ phải chịu trách nhiệm hình sự về đồng phạm tội đánh bạc” Đối chiếu với quy định nêu trên NTT và NCH không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức đánh bạc mà phải chịu trách nhiệm về tội đánh bạc với vai trò đồng phạm với bị cáo NXH.

Vì vậy, NTT và NCH phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đánh bạc với số tiền là 11.640.000 đồng.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: trong các ngày từ ngày 16-18/3/2020. Các bị cáo NCH, NTT, NXH đã có hành vi đánh bạc trái phép sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức cấp H cấp tài khoản cho TH, TH cấp tài khoản cho H để đánh lô, đề và cá độ bóng đá trên mạng Internet thì bị phát hiện.

[3] Tại phiên tòa, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên thay đổi tội danh truy tố đối với các bị cáo NCH và NTT từ tội “Tổ chức đánh bạc” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 322 của Bộ luật hình sự năm 2015 sang tội “Đánh bạc” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo NXH là có căn cứ và đúng pháp luật.

[4] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý xâm phạm trật tự công cộng được Bộ luật Hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội nên cần phải xử lý nghiêm minh đối với các bị cáo.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo NCH, NTT, NXH được áp dụng tình tiết người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51, bị cáo H là lao động chính trong gia đình có 02 con nhỏ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo NXH được áp dụng thêm tình tiết người phạm tội tự thú quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.Bị cáo NTT được áp dụng thêm tình tiết người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm được tặng Giấy khen của UBND phường Đồng Nguyên về thành tích trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự

[7]. Về nhân thân:

- Bị cáo NCH có 01 tiền sự ngày 18/12/2018 Công an thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh xử phạt hành chính về hành vi Đánh bạc đã hết thời hiệu.

- Bị cáo NXH có 01 tiền án ngày 26/01/2015 TAND quận Hoàng Mai, TP Hà Nội xử phạt 10 tháng tù cho hưởng án treo thời hạn thử thách 20 tháng kể từ ngày tuyên án đã được xóa án tích.

[8]. Đây là vụ án có Th chất đồng phạm giản đơn, xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo H, H, TH đáng ra phải xử phạt các bị cáo một mức tù trong khung hình phạt nhằm cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới thỏa đáng. Song khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử thấy rằng, các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nên mở lượng khoan hồng cho các bị cáo và chỉ cần xử phạt các bị cáo một mức án tù trong khung hình phạt nhưng cho các bị cáo được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự 2015 để tạo điều kiện cho các bị cáo được cải tạo ngoài xã hội cũng đủ điều kiện giáo dục riêng các bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về hình phạt áp dụng đối với các bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[9]. Xét thấy các bị cáo không có công ăn việc làm và thu nhập ổn định và không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo là có căn cứ.

[10]. Về xử lý vật chứng: Đề nghị cho tịch thu, sung quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu xám đã qua sử dụng, số imei: 359300063184890 thu giữ của NXH, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu hồng đã qua sử dụng, số imei: 355335082613077 thu giữ của NTT.

Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về hình phạt bổ sung và về xử lý vật chứng là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[11]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[12]. Về quyền kháng cáo:

Các bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo NCH, NTT, NXH phạm tội “Đánh bạc”

Căn cứ Điểm c khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 65 BLHS năm 2015.

Căn cứ vào Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết số 02/2018/NQQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao.

- Xử phạt: Bị cáo NCH 36 (Ba mươi sáu) tháng tù cho hưởng án treo.Thời hạn thử thách là 60 (Sáu mươi) tháng tính từ khi tuyên án sơ thẩm.

Căn cứ Điểm c khoản 2 Điều 321; điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 17: Điều 65 BLHS 2015.

Căn cứ vào Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết số 02/2018/NQQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao.

- Xử phạt: bị cáo NTT 36 (Ba mươi sáu) tháng tù cho hưởng án treo.Thời hạn thử thách là 60 (Sáu mươi) tháng tính từ khi tuyên án sơ thẩm.

Căn cứ Điểm c khoản 2 Điều 321; điểm r, s, t khoản 1 Điều 51; Diều 17: Điều 65 BLHS 2015.

Căn cứ vào Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết số 02/2018/NQQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao.

- Xử phạt: bị cáo NXH 36 (Ba mươi sáu) tháng tù cho hưởng án treo.Thời hạn thử thách là 60 (Sáu mươi) tháng tính từ khi tuyên án sơ thẩm.

Giao các bị cáo NCH, NTT, NXH cho Ủy ban nhân dân phường Đồng Nguyên, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì TH hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo Cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (Hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015 và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu, sung quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu xám đã qua sử dụng, số imei: 359300063184890 thu giữ của NXH, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu hồng đã qua sử dụng, số imei:

355335082613077 thu giữ của NTT (Hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Long Biên theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 14/8/2020).

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Các bị cáo NCH, NTT, NXH mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

4. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 bộ luật Tố tụng Hình sự. Án xử công khai sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

319
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 229/2019/HS-ST ngày 18/09/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:229/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về