Bản án 229/2017/HSST ngày 27/12/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH - TP.HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 229/2017/HSST NGÀY 27/12/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 27 tháng 12 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 234/2017/HSST ngày 04/12/2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Duy M; Sinh năm 1994; Giới tính: Nam; Nơi sinh: Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi ĐKHKTT: K6 Nguyễn Thái Sơn, phường A, quận G, Thành phố Hồ Chí; Chỗ ở: 128 Đinh Tiên Hoàng, phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Làm công; Họ tên cha: Phạm Duy S, sinh năm 1966; Họ tên mẹ: Nguyễn Thanh K, sinh năm 1967; Hoàn cảnh gia đình: Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Đã hoàn thành nghĩa vụ quận sự tại Ban chỉ huy quân sự quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 09/2012 đến tháng 01/2015; Tạm giam ngày 30/9/2017; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Lê Thiện Trung H, sinh năm 1994; Nơi ĐKHKTT: Khu phố 2, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

2/ Bà Nguyễn Thị Mỹ O, sinh năm 1986; Nơi ĐKHKTT: Khu phố 2, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

NHẬN THẤY

Bị cáo Phạm Duy M bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Phạm Duy M là người nghiện ma túy được khoảng một tháng tính đến ngày bị bắt. Khoảng 21 giờ ngày 29/9/2017, M từ nhà ở quận Bình Thạnh đón xe ôm đến quán bar tại số 212 Nguyễn Trãi, phường Nguyễn Cư Trinh, Quận 1, Thànhm phố Hồ Chí Minh để dự sinh nhật một người bạn tên N (không rõ lai lịch). Tại tiệc sinh nhật có khoảng 15 người bạn của N nhưng M không biết lai lịch, chỉ quen với Lê Thiện Trung H. Trong lúc dự sinh nhật có một người thanh niên trong nhóm bạn của N (không rõ lai lịch) đến mời M sử dụng ma túy. M đồng ý nên người thanh niên này đưa cho M một ít ma túy tổng hợp để sử dụng. Sử dụng xong ma túy, M mua của người thanh niên này 03 gói ma túy tổng hợp với giá 3.500.000 đồng. Sau khi mua ma túy M bỏ 03 gói ma túy này vào trong ví da và cất ví vào túi quần phía sau bên phải với mục đích để sử dụng cho bản thân. Đến khoảng 02 giờ 30 phút ngày 30/9/2017, sau khi dự sinh nhật xong do H bị say nên không tự lái xe về nhà được nên nhờ M chở về. Khi M điều khiển xe chở H lưu thông đến trước nhà số 90 đường 9A, khu dân cư Trung Sơn thuộc ấp 4B, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh thì bị Công an xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh đi tuần tra, nghi vấn nên kiểm tra hành chính đối với M thì M tự nguyện lấy 03 gói ma túy ra giao nộp cho Công an.

Công an xã Bình Hưng lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, lập hồ sơ ban đầu chuyển Công an huyện Bình Chánh để điều tra, giải quyết theo thẩm quyền.

Căn cứ vào bản Kết luận giám định số 1598/KLGĐ - H ngày 09 tháng 10 năm 2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành Phố Hồ Chí Minh kết luận: Bột nhuyễn màu trắng trong 03 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Phạm Duy M và hình dấu Công an xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,2496 gram, loại Ketamine, sau giám định còn lại là 1,0684 gram.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh Phạm Duy M đã khai nhân toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Vật chứng vụ án gồm:

Thu giữ của bị cáo M gồm: 03 gói nylon được niêm phong bên trong có chứa ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,2496 gram, loại Ketamine, sau giám định còn lại là 1,0684 gram; 01 bóp da màu đen; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S cùng sim điện thoại số 0128.444.5763.

Thu giữ của Lê Thiện Trung H: 01 xe mô tô biển số 59G2 – 043.11; 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng hồng cùng sim bên trong.

Tại bản Cáo trạng số 218/CTr - VKS ngày 20 tháng 11 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố bị cáo Phạm Duy M về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự 1999.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Phạm Duy M đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình giống như lời khai tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đồng thời thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh truy tố bị cáo. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa hôm nay, Vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, sau khi nêu tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất của vụ án những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị xử phạt bị cáo Phạm Duy M từ 15 tháng đến 18 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung bị cáo và xử lý vật chứng theo qui định pháp luật.

Căn cứ vào tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, bị cáo.

XÉT THẤY

Lời khai nhận tội của bị cáo Phạm Duy M tại tòa hôm nay là phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra (BL: 73 - 86); phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lê Thiện Trung H (BL: 91 – 97); phù hợp với nội dung Cáo trạng truy tố. Vụ án còn được chứng minh qua hoạt động điều tra như biên bản lấy lời khai, biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng, giám định vật chứng…cùng các chứng cứ, tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án vv…. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Vào ngày 30/9/2017, bị cáo Phạm Duy M đã có hành vi tàng trữ 1,2496 gram ma túy, loại Ketamine với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt quả tang vào lúc 03 giờ 30 phút cùng ngày tại trước nhà số số 90 đường 9A, khu dân cư Trung Sơn thuộc ấp 4B, xã Bình Hưng, Thành phố Hồ Chí Minh.

Với những tình tiết được chứng minh trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Phạm Duy M đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được qui định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự; nên Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội.

Đối với Lê Thiện Trung H không biết Minh cất giữ ma túy và qua test ma túy xác định Hiếu không sử dụng ma túy nên Cơ quan điều tra không xử lý Hiếu.

Đối với người thanh niên bán ma túy cho Minh tại quán bar 121 Nguyễn Trãi, phường Nguyễn Cư Trinh, Quận 1, do không xác định được lai lịch nên không có căn cứ để xử lý.

Tội phạm do bị cáo gây ra là rất nguy hại cho xã hội, mặt dù bị cáo biết rõ ma túy là loại biệt dược được Nhà nước thống nhất quản lý hết sức chặt chẽ, mọi hành vi liên quan đến ma túy từng mức độ sẽ bị xử lý hình sự. Song chỉ vì muốn có ma túy sử dụng cho bản thân nên bị cáo đã cố ý phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội là tiền đề phát sinh nhiều loại tội phạm khác gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Do đó, khi lượng hình cần buộc bị cáo tiếp tục chấp hành hình phạt tù có thời hạn một thời gian để bị cáo đoạn tuyệt với ma túy cũng như răn đe và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi lượng hình cũng cần cân nhắc đến bị cáo thành khẩn khai báo và đã tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự, số lượng ma túy bị cáo tàng trữ không lớn, đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự 02 năm 06 tháng tại Ban chỉ huy quân sự quận Gò Vấp. Xét các tình tiết giảm nhẹ nêu trên kết hợp với chính sách hình sự nhằm giáo dục là chính để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt được qui định tại điểm p khoản 1 khoản 2, Điều 46, Điều 47 Bộ Luật hình sự và điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

Vật chứng của vụ án:

Đối với 03 gói nylon được niêm phong bên trong có chứa ma túy ở thể rắn,có khối lượng 1,2496 gram, loại Ketamine, sau giám định còn lại là 1,0684 gram; 01 bóp da màu đen, sẽ tịch thu tiêu hủy theo điểm đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S cùng sim điện thoại số 0128.444.5763, đây là tài sản thuộc quyền sở hữu của bị cáo không liên quan đến vụ án, nghĩ trả lại cho bị cáo là phù hợp.

Đối với xe mô tô biển số 59G2 – 043.11, qua xác minh xe này do bà Nguyễn Thị Mỹ O đứng tên đăng ký sở hữu, ngày 29/9/2017, bà O cho Lê Thiện Trung H mượn đi sinh nhật, sau đó H nhờ M chở về. Xét xe này không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo M nên Cơ quan cảnh sát điều tra đã làm thủ tục giao trả xe này lại cho bà O theo Biên bản về việc trả lại tài sản được lập vào hồi 10 giờ 30 phút ngày 19/10/2017 (BL: 56).

Đối với điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng hồng cùng sim bên trong thu giữ của H, xét điện thoại này không liên đến vụ án nên Cơ quan cảnh sát điều tra đã làm thủ tục giao trả cho ông H theo Biên bản về việc trả lại tài sản được lập vào hồi 10 giờ 54 phút ngày 19/10/2017 (BL: 57).

Ở dạng tội phạm này ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền nên cần áp dụng khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự phạt bị cáo M một số tiền nhất định để sung quỹ Nhà nước là phù hợp.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng Hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Duy M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo luật số 12/2017/QH14.

Xử phạt bị cáo Phạm Duy M 01 (Một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/9/2017.

Áp dụng khoản 5 Điều 194 của Bộ Luật hình sự.

Buộc bị cáo Phạm Duy M nộp phạt 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.

Việc nộp số tiền phạt nêu trên phải được thực hiện một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Về vật chứng: Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng Hình sự; khoản 2 Điều 41 Bộ luật Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 03 gói nylon được niêm phong bên trong có chứa ma túyở thể rắn, có khối lượng 1,2496 gram, loại Ketamine, sau giám định còn lại là 1,0684 gram; 01 bóp da màu đen.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S cùng sim điện thoại số 0128.444.5763.

(các vật chứng trên hiện đang giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh theo Biên bản giao nhận vật chứng lập vào hồi 14 giờ ngày 24/11/2017).

Áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, tính kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt tại tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, tính từ ngày nhận toàn sao bản án hoặc bản án được niêm yết theo qui định pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7, 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

379
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 229/2017/HSST ngày 27/12/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:229/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về