TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 228/2019/HS-ST NGÀY 20/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 20 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 222/2019/TLST-HS ngày 26 tháng 7 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 239/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 7 năm 2019, đối với bị cáo:
Đặng Thanh D; sinh ngày: 06/9/1991; tại: Quảng Ngãi; hộ khẩu thường trú: huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi; nơi đang cư trú: phường Tăng Nhơn Phú B, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: tài xế; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đặng Thanh N và bà: Ngô Thị Hi; có vợ chưa có con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt, tạm giam: từ ngày 05/3/2019 đến ngày 11/3/2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.
Bị hại: Công ty Trách nhiệm hữu hạn E (Việt Nam)
Địa chỉ: thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp: ông Chu Yu C - chức vụ giám đốc. (vắng mặt)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên giao nhận vận tải K.
Địa chỉ: phường Trung Mỹ Tây, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp: ông Trương Công C - Chức vụ Giám đốc. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
[1] Đặng Thanh D là tài xế của Công ty TNHH Một thành viên Giao nhận vận tải K, địa chỉ: phường Trung Mỹ Tây, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. Khoảng 08 giờ ngày 21/02/2019 Đ không rõ lai lịch là bạn cùng quê gọi điện thoại rủ D lấy trộm tài sản của kiện hàng trong quá trình vận chuyển hàng hóa từ kho của công ty E tại Khu công nghiệp Sóng Thần, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đến sân bay Tân Sơn Nhất. Khoảng 13 giờ ngày 28/02/2019 D điều khiển xe tải biển số 51C-xxx đến kho hàng của công ty E bốc hàng quần áo vận chuyển đến sân bay, theo hợp đồng vận chuyển giữa công ty K và công ty E. Sau khi xếp hàng xong D gọi điện thoại thông báo cho Đ biết, Đ hẹn D điều khiển xe đến bãi rác trên đường số 9, phường Linh Xuân, quận Thủ Đức để Đ lấy trộm tài sản. Đến nơi hẹn D dừng xe lại, Đ điều khiển xe mô tô đến mở bản lề cửa sau xe tải leo lên mở niêm phong lấy trộm 216 cái quần short nữ hiệu Reebok trong các kiện hàng rồi tẩu thoát, còn D tiếp tục điều khiển xe về sân bay giao hàng cho khách. Đến 18 giờ cùng ngày, Đ gặp D tại vòng xoay khu vực cầu vượt Linh Xuân và chia cho D 10.000.000 đồng tiền bán tài sản trộm được. Về nhà D đưa số tiền này cho vợ là Nguyễn Thị T cất giữ và nói là tiền lương của D. Ngày 04/3/2019 công ty E phát hiện D giao hàng không đủ theo số lượng nên trình báo công an. Đặng Thanh D bị bắt đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.
Vật chứng vụ án:
- 216 quần short nữ hiệu Reebok (không thu hồi được)
- 02 điện thoại di động (01 điện thoại hiệu Nokia, 01 điện thoại hiệu Samsung thu của D)
- Số tiền 10.000.000 đồng do chị Nguyễn Thị T giao nộp.
Căn cứ kết luận định giá tài sản số 392/CV-HĐĐGTSTTTHS ngày 07/3/2018, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Thủ Đức, kết luận: 216 quần short nữ hiệu Reebok có giá 30.952.476 đồng.
Về phần dân sự: gia đình bị cáo đã bồi thường số tiền 30.952.476 đồng cho Công ty K, Công ty K đã bồi thường số tiền 31.086.180 đồng cho công ty E. Công ty K và công ty E đã nhận tiền bồi thường không yêu cầu gì thêm và có đơn bãi nại cho bị cáo.
[2] Bản Cáo trạng số 244/CT-VKSTĐ ngày 23/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố bị cáo Đặng Thanh D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Đặng Thanh D phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, h, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 54 để xử phạt bị cáo từ 12 (mười hai) đến 18 (mười tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, đề nghị ấn định thời gian thử thách theo quy định. Vật chứng xử lý theo quy định pháp luật. Phần dân sự đã giải quyết xong.
Bị cáo Đặng Thanh D không tranh luận hoặc bào chữa gì, bị cáo nói lời sau cùng rất hối hận, xin Hội đồng xét xử xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Đặng Thanh D phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, có căn cứ xác định bị cáo cùng với tên Đ (không rõ lai lịch) đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại Công ty Trách nhiệm hữu hạn E(Việt Nam). Tài sản chiếm đoạt là 216 quần short nữ hiệu Reebok. Căn cứ kết luận định giá tài sản số 392/CV-HĐĐGTSTTTHS ngày 07/3/2019 trong tố tụng hình sự có giá 30.952.476 đồng. Do đó, có đủ cơ sở pháp lý kết luận bị cáo Đặng Thanh D đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định, trừng trị tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Vì động cơ vụ lợi, bị cáo đã cố ý xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội thể hiện bị cáo rất liều lĩnh và xem thường pháp luật. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với hình phạt nghiêm, phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa.
[3] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cần xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội gây thiệt hại không lớn, gia đình bị cáo đã bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả và bị hại đã có đơn bãi nại cho bị cáo, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, nên giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Xét thấy bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng vì vậy không cần thiết áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo, mà cho bị cáo được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe đối với bị cáo và nêu gương phòng ngừa chung.
Ngoài việc chấp hành hình phạt chính, Hội đồng xét xử nhận thấy cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Đối với tên Đ chưa xác minh được lai lịch Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức đã tách vụ án để xử lý sau.
Đối với Nguyễn Thị T là vợ bị cáo D không biết số tiền 10.000.000 đồng do bị cáo D đưa là tiền do trộm cắp tài sản mà có. Sau khi sự việc bị phát hiện chị T đã chủ động giao nộp lại số tiền cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, nên không xử lý hình sự đối với T là có căn cứ.
[4] Về trách nhiệm dân sự: gia đình bị cáo đã bồi thường số tiền 30.952.476 đồng cho Công ty K, Công ty K đã bồi thường số tiền 31.086.180 đồng cho công ty E. Công ty K và công ty E đã nhận tiền bồi thường, không yêu cầu gì thêm. Hội đồng xét xử ghi nhận.
[5] Về vật chứng vụ án: 216 quần short nữ hiệu Reebok (không thu hồi được)
- 01 điện thoại hiệu Nokia không liên quan đến vụ án do đó trả lại cho bị cáo,
- 01 điện thoại hiệu Samsung, bị cáo dùng để liên lạc với tên Đ để thục hiện hành vi trộm cắp tài sản, đây là công cụ phạm tội cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.
- Số tiền 10.000.000 đồng do chị Nguyễn Thị T giao nộp. Số tiền này do D được chia từ tiền bán tài sản trộm được. Mặc dù bị cáo và gia đình đã bồi thường thiệt hại, khắc phục toàn bộ hậu quả, số tiền trên phải trả lại cho bị cáo, tuy nhiên, do bị cáo phải chấp hành hình phạt bổ sung là phạt tiền nên số tiền này được cấn trừ vào hình phạt bổ sung mà bị cáo phải chịu.
[6] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Tuyên bố: bị cáo Đặng Thanh D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, h, i, s khoản 1 Điều 51, khoản 1, 2 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
- Xử phạt bị cáo Đặng Thanh D 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 02 (hai) năm, tính từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo Đặng Thanh D cho Ủy ban nhân dân phường Tăng Nhơn Phú B, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
- Áp dụng khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Bị cáo Đặng Thanh D phải nộp phạt số tiền: 10.000.000 đồng (mười triệu đồng). Số tiền này được cấn trừ vào số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) mà chị Nguyễn Thị T đã giao nộp (theo giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 14/5/2019 của Kho bạc nhà nước Thủ Đức).
- Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
+ Trả lại cho bị cáo Đặng Thanh D 01 điện thoại di động hiệu Nokia.
+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung.
(Vật chứng tại Phiếu nhập kho số NKT2019/211 ngày 30/7/2019, của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức và)
- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo Đặng Thanh D chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
- Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án. Riêng bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt, thời gian kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.(Đã giải thích chế định án treo)
Bản án 228/2019/HS-ST ngày 20/08/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 228/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/08/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về