Bản án 228/2019/HS-PT ngày 06/05/2019 về tội gây rối trật tự công cộng

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

 BẢN ÁN 228/2019/HS-PT NGÀY 06/05/2019 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

 Ngày 06 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 731/2018/TLPT-HS ngày 13 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo Trần Ngọc A ( ), sinh năm 1996 do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 48/2018/HS-ST ngày 30 tháng 10 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Bị cáo có kháng cáo:

Trần Ngọc A sinh năm 1996, tại Bà Rịa - Vũng Tàu.

Hộ khẩu thường trú: , thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; nghề nghiệp: công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn V , sinh năm 1966 và bà Trần Thị L , sinh năm 1971.

Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo tại ngoại (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Phạm Quang B – Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

Ngoài ra trong vụ án còn có các bị cáo khác, đại diện bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên do không có kháng cáo và kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ ngày 03-5-2018, Dương Công Đ và Dương Văn M đang uống cà phê tại quán Sao Mai trên phường Thắng Nhất, thành phố Vũng Tàu thì xảy ra mâu thuẫn, đánh nhau với Trần Văn H . Lúc này, Đỗ Như C là bạn của H chạy đến cùng tham gia đánh Đ và M . H điện thoại cho Mai Hoàng T thông báo về việc đang bị đánh và nhờ giúp đỡ. T đang ăn nhậu với Trần Hoàng A1, Nguyễn Văn L , Trần Văn L1và một số thanh niên khác (không rõ nhân thân lai lịch) tại ngã ba đường 30/4 - Bình Giã, nên rủ tất cả cùng nhau đi đến chỗ của Hùng. Lúc này, Trần Ngọc A cùng với bạn tên S (chưa rõ nhân thân lai lịch) đang ngồi uống nước ở phía đối diện quán nhậu thấy vậy cũng chạy theo.

Khi đến chỗ H , T và C đuổi đánh Đ gây thương tích. Còn Văn L1, Ngọc A1, S , K và 01 người bạn của L1 (không rõ họ tên, lai lịch) đi đến ngã ba Lưu Chí Hiếu - Đường 2/9 thì nhìn thấy Lê Văn H1, Nguyễn Văn H2 và Nguyễn Sơn L2 đang đi trên một xe môtô. Cho rằng 03 thanh niên này là người đã đánh H nên cả nhóm Văn L1 đuổi theo H1, H2 và Sơn L2 đến sân chung cư SeaView 1. H1, H2 và Sơn L2 bỏ xe chạy vào trong chung cư thì bị Văn L1 và Ngọc A đuổi theo vào trong. H1 chạy vào thang máy, còn Văn L1, Ngọc A thì chạy đuổi theo bằng cầu thang bộ. H2 chạy trốn sau chung cư, Sơn L2 trốn ở tầng 9 chung cư. Văn L1 và Ngọc A đuổi đến tầng 6 không đánh được ai nên đi xuống sảnh chung cư.

H1 chạy về Phòng số 1102 là nơi đang sinh sống thì thấy Trương Văn T1 là bạn ở cùng đang ngồi chơi với khách là Trương Viết K , Lê Đình S1 và Lê Văn P . H1 nói cho T1 biết việc bị nhóm Văn L1 đuổi đánh. T1 mang theo con dao bằng kim loại màu đen, cán dao liền với thân dao dài 40cm, mũi bằng, chỗ rộng nhất của lưỡi dao rộng 7cm cùng H1 đi thang máy xuống sảnh chung cư. K , S1, P đang ngồi chơi thấy vậy bỏ đi ra khỏi phòng. Khi T1, H1 ở sảnh chung cư thì Ngọc A, Văn L1 cũng vừa đi thang bộ xuống sảnh. Thấy T1 cầm dao nên Ngọc A bỏ chạy ra ngoài sân chung cư. H1 chỉ cho T1 biết Văn L1 chính là người đuổi theo đánh H1 nên T1 cầm dao chạy đến chém vào người Văn L1 nhiều nhát, còn H1 chạy đến dùng tay đánh vào người Văn L1 hai cái. Hậu quả Văn L1 chết tại chỗ.

Tại Kết luận giám định pháp y về tử thi số 132/PC54-Đ4 ngày 04-6-2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu kết luận:

“- Dấu hiệu qua giám định: Rách da ¼ ngoài bờ trên vai trái hình khe, hai góc nhọn, kích thước 8cmx02cm, vết thương sâu 1,8cm; chảy máu trong cơ vai trái, vết đứt xương bờ trên vai trái hình khe sâu 1,2cm. Rách da vùng bẹn trái hình khe, hai góc nhọn, kích thước 08cmx02cm, vết thương sâu 3,8cm, chảy máu trong cơ vùng bẹn trái, đứt ngang động mạch chậu ngoài trái, mất máu cấp. Hai phổ xẹp. Buồng tim ít máu, các quai động mạch và động mạch chủ ngực- bụng còn ít máu.

- Nguyên nhân chết: Trần Văn L1 chết do Shock mất máu không hồi phục- do vết thương đứt động mạch chậu ngoài, mất máu cấp.

- Kết luận khác: Vật gây nên vết thương ở vai và vùng bẹn là vật sắc, cứng, bản dẹt, tác động trực tiếp vào vai cơ thể nạn nhân hướng từ trên xuống dưới; tác động vào vùng bẹn cơ thể nạn nhân hướng từ trước ra sau.

- Trong máu tử thi Trần Văn L1, tìm thấy cồn Ethanol- Nồng độ 0,6g/l”.

Tại Kết luận giám định số 2041/C54B, ngày 26-6-2018 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh, kết luận:

“Chất màu đỏ dính trên con dao gửi giám định là máu người. Phân tích AND từ mẫu máu này được một kiểu gen hoàn chỉnh của một nam giới và trùng với kiểu gen của Trần Văn L1”.

Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số 142/TgT, ngày 13-6- 2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đối với Dương Công Đ xác định:“Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra hiện tại là 01%. Vật gây thương tích: do sự tác động tương hỗ của vật rắn tầy”.

Sau khi đánh, chém Trần Văn L1, Trương Văn T1 và Lê Văn H1 chạy lên Phòng 1102 chung cư SeaView 1, sau đó bỏ trốn. Ngày 07-5-2018, H1 ra đầu thú, đến ngày 22-5-2018 T1cũng ra đầu thú.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Nguyễn Thị Dạ L3 là vợ bị cáo Trương Văn T1 đã bồi thường cho gia đình bị hại Trần Văn L1số tiền 350.000.000 đồng. Gia đình bị hại không có yêu cầu gì khác.

Tại bản cáo trạng số 46/CT-VKS-P2 ngày 21 - 9 - 2018, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã truy tố các bị cáo Trương Văn T1 và Lê Văn H1 về tội "Giết người”, theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Trần Ngọc A về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại khoản 1 Điều 318 Bộ luật hình sự.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 48/2018/HS-ST ngày 30 tháng 10 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu quyết định:

1. Tuyên bố: Các bị cáo Trương Văn T1 và Lê Văn H1 phạm tội “Giết người”; bị cáo Trần Ngọc A phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.

- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trương Văn T1 14 (mười bốn) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23-5-2018.

- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 17 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn H1 10 (mười) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07-5-2018.

- Áp dụng khoản 1 Điều 318; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Ngọc A 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Không có yêu cầu nên không giải quyết.

Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 05/11/2018 bị cáo Trần Ngọc A kháng cáo xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Quan điểm của Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ chí Minh tham gia phiên tòa: Đơn kháng cáo của bị cáo và các thủ tục tố tụng khác đã được thực hiện đúng quy định pháp luật. Đối với hành vi phạm tội của bị cáo Trần Ngọc A, bị cáo và bị hại không có mâu thuẫn trước đó, khi xẩy ra mâu thuẫn bị cáo chủ động tham gia đánh nhau. Bị cáo có hành vi rượt đuổi gây náo loạn chung cư, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh trật tự tại nới công cộng, gây tâm lý hoang mang lo sợ cho người dân. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đúng người đúng tôi. Mức án sơ thẩm tuyên là phù hợp, không có cơ sở cho bị cáo Trần Ngọc A được hưởng án treo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Trần Ngọc A trình bày: Về tội danh bản án sơ thẩm đã tuyên là đúng người đúng tội. Về hình phạt áp dụng các điều 1 và 3 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì bị cáo Trần Ngọc A đủ điều kiện hưởng án treo. Như bị phạt tù không quá 03 năm, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, nơi làm việc ổn định. Bị cáo mới hoàn thành nghĩa vụ quận sự 02 năm nay. Phạm tội lần đầu, ít nghiêm trọng. Ông nội bị cáo có công với cách mạng, bố mẹ và bản thân bị cáo chấp hành tốt chủ trương của nhà nước, địa phương. Bị cáo đã nhận thức được lỗi lầm của mình. Hành vi phạm tội của bị cáo là sự nông nổi tuổi trẻ, do vậy không cần thiết phải cách ly bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm từ 15 tháng tù giam thành 15 tháng tù cho hưởng án treo.

Bị cáo Trần Ngọc A trình bày: Thống nhất vời trình bày của người bào chữa. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, Luật sư và bị cáo. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội và tội danh của bị cáo:

[2.1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, vật chứng và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Từ đó Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định vào khoảng hơn 23 giờ ngày 03-5-2018, do nhầm tưởng Lê Văn H1, Nguyễn Sơn L2 và Nguyễn Văn H2 là những người đã đánh bạn mình nên Trần Văn L1, Trần Ngọc A và nhóm bạn đi cùng đã dùng xe mô tô đuổi đánh H1, Sơn L2 và H2 từ ngã tư Lưu Chí Hiếu – Đường 2/9 đến sân chung cư SeaView 1, phường 10, thành phố Vũng Tàu. Lê Văn H1 chạy thoát lên phòng 1102 của chung cư SeaView 1 và nói cho bạn cùng phòng là Trương Văn T1 về việc bị đuổi đánh thì T1cầm theo 01 con dao bằng kim loại màu đen dài 40cm, mũi bằng, đi cùng Hải xuống sảnh chung cư. Khi nhìn thấy Trần Văn L1 và Trần Ngọc A , Lê Văn H1 đã chỉ cho T1 biết Trần Văn L1 là người đã đuổi đánh mình. Đồng thời, H1 dùng tay đánh, còn Trương Văn T1 dùng dao chém nhiều nhát vào người Trần Văn L1. Hậu quả, Trần Văn L1chết tại chỗ do shock mất máu không phục hồi, vết thương đứt động mạch chậu ngoài, mất máu cấp.

[2.2] Hành vi nêu trên của bị cáo T1 và bị cáo H1 là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã tước đi mạng sống của một con người, gây đau thương, mất mat không gì bù đắp được cho gia đình bị hại và gây mất trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Với tính chất, mức độ phạm tội và hậu quả thực tế như trên, xét cần xử phạt T1 và H1 mức án thật nghiêm khắc mới đủ sức cải tạo, giáo dục các bị cáo và đấu tranh, phòng ngừa tội phạm chung. Trong đó, T1 là người dùng dao chém bị hại nhiều nhất, là nguyên nhân trực tiếp gây nên cái chết cho bị hại nên phải chịu mức án nghiêm khắc hơn so với Lê Văn H1. Còn bị cáo H1 tuy không trực tiếp chém bị hại nhưng là người kể lại sự việc bị nhóm của L1 đuổi đánh cho T1nghe, khi biết T1 cầm dao xuống tìm đánh nhóm bị hại H1 không ngăn cản mà đồng ý đi cùng chứng tỏ Hải cũng tiếp nhận ý chí từ T1. Khi nhìn thấy Trần Văn L1 thì H1 là người chỉ cho T 1 biết L1 là ngươi đã đuổi đánh mình và cùng T1 đanh, chém L1, làm L1 chết tại chổ. Toà án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo T1 14 năm tù giam và bị cáo H1 10 năm tù giam là chưa nghiêm . Tuy nhiên , phần bản án sơ thẩm đối với 02 bị cáo này k hông bị kháng cáo, kháng nghị tăng án nên theo quy định của pháp luật về giới hạn xét xử thì Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ nêu để rút kinh nghiệm, chứ không xem xét theo hướng bất lợi cho bị cáo.

[2.3] Đối với Trần Ngọc A khi thấy Trần Văn L1 và nhóm bạn nhậu chung đi tìm những người đã đánh Trần Văn H , tuy không được ai rủ nhưng Ngọc A và đối tượng tên S tự đi theo. Khi nhìn thấy H1, H2 và Sơn L2, mặc dù không biết có phải là những người đã đánh bạn mình hay không nhưng Ngọc A , Văn L1 và nhóm bạn đi cùng vẫn hô hào nhau đuổi đánh đến tận chung cư SeaView 1. Bị cáo và Trần Văn L1 còn đuổi theo Sơn L2 lên tầng 6 chung cư để đánh. Hành vi trên của bị cáo thể hiện ý chí muốn truy đuổi và đánh nhóm của H1 dù không có mâu thuẫn gì. Hành vi của bị cáo Trần Ngọc A là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ gây mất an ninh, trật tự tại nơi công cộng mà còn gây tâm lý hoang mang, lo sợ cho những người dân nơi xảy ra tội phạm. Tuy nhiên, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải; bị cáo từng tham gia nghĩa vụ quân sự, có địa chỉ cư trú rõ ràng nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[2.4] Từ những phân tích trên có đủ căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo, chấp nhận đề nghị của người bào chữa, sửa một phần bản án sơ thẩm.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo Trần Ngọc A được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Ngọc A . Sửa một phần bản án sơ thẩm.

1. Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc A phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 318; các điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự, Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016;

2.1. Xử phạt bị cáo Trần Ngọc A 15 (mười lăm) tháng tù cho nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 30 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (ngày 06/5/2019).

2.2. Giao bị cáo Trần Ngọc A cho Ủy ban nhân dân phường 10, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu để quản lý, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

2.3. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

2.4. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Trần Ngọc A không phải chịu.

4. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2018/HS-ST ngày 30 tháng 10 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

441
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 228/2019/HS-PT ngày 06/05/2019 về tội gây rối trật tự công cộng

Số hiệu:228/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về