Bản án 227/2019/HSST ngày 26/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẦU GIẤY, thành PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 227/2019/HSST NGÀY 26/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Tòa án nhân dân quận cầu Giấy xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự theo thủ tục rút gọn thụ lý số: 237/2019/HSST ngày 16 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

NGUYỄN NGỌC T, sinh năm: 1995, tại Bắc Ninh; ĐKHKTT và nơi cư trú: Thôn G, xã P, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Ngọc L và bà Nguyễn Thị M; Tiền án, tiền sự: Không. DCB số 425 lập ngày 22/8/2019 tại Công an quận cầu Giấy. Bị cáo bị tạm giữ ngày 18/8/2019. Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn ngày 21/8/2019. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt).

- Bị hại: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1962; Địa chỉ: phường T, quận cầu Giấy, Hà Nội. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án truy tố theo thủ tục rút gọn được tóm tắt như sau:

Khoảng 5 giờ 30 phút ngày 18/8/2019, Nguyễn Ngọc T đi bộ từ phòng trọ tại chung cư B, Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà Nội đến sân vui chơi ngõ 123 Trung Kính, Trung Hòa, cầu Giấy, Hà Nội để tập thể dục. Đến nơi, T đi vòng quanh sân tập thể dục thì phát hiện tại bệ cây cách sân bóng chuyền khoảng 02m bà Nguyễn Thị H đang ngồi sử dụng điện thoại Iphone 6S plus màu xám 64 Gb có ốp lưng màu hồng. Sau đó, bà H để điện thoại ở bệ cây để ra chơi bóng chuyền, không có người trông giữ nên T đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. T đi đến gần bệ cây để điện thoại, đứng quan sát mọi người xung quanh. Lúc đó, ông Nguyễn Quang N ngồi trong sân phát hiện thấy T có biểu hiện nghi vấn nên đã theo dõi. Khoảng 5 phút sau, lợi dụng lúc mọi người không để ý T dừng tay trái lấy chiếc điện thoại trên cho vào túi quần trước bên trái rồi nhanh chóng bỏ đi về phía cổng sân hướng đường Tú Mỡ. Thấy thế ông N liền hô: “Thằng áo tráng lấy trộm điện thoại, trộm, trộm”. Anh Trần Anh T đang ở gần cổng hướng đường Tú Mỡ nghe thấy liền cùng ông N đuổi theo. Thấy có người đuổi theo T đã chạy ra cổng, được 15m thì T lấy chiếc điện thoại trên để xuống vỉa hè bên đường. Anh T chạy đến nhặt chiếc điện thoại trên rồi cùng ông N đuổi theo được 5m nữa thì bắt giữ được T. Sau đó, ông N và anh T bàn giao T cùng tang vật cho Công an phường Trung Hòa giải quyết.

Theo Kết luận định giá số 357/TCKH-BBĐGHĐ ngày 19/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận cầu Giấy: 01 điện thoại Iphone 6S màu xám 64 Gb trị giá 4.600.000 đồng; 01 Ốp lưng điện thoại Iphone 6S Plus màu hồng không còn giá trị.

Tại Cơ quan điều tra: Nguyễn Ngọc T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án nêu trên. Lời khai của T phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc điện thoại nêu trên cho bà Nguyễn Thị H. Sau khi nhận lại tài sản, bà Hà không có yêu cầu gì về dân sự.

Tại Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 242/QĐ-VKSCG ngày 11/9/2019 Viện kiểm sát nhân dân quận cầu Giấy truy tố Nguyễn Ngọc T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã khai tại cơ quan điều tra. Bị cáo thừa nhận quyết định truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội. Bị cáo thực sự ăn năn hối cải và đề nghị xem xét cho bị cáo được hưởng lượng khoan hồng, cải tạo ngoài xã hội để có cơ hội làm người lương thiện.

- Bị hại: Bà Nguyễn Thị H có đơn xin xử vắng mặt, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì về dân sự do đã nhận lại tài sản và đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận cầu Giấy giữ nguyên quan điểm truy tố nêu trên và đề nghị: Áp dụng khoản 1 điều 173; điểm i, s, khoản 1, khoản 2 điều 51; điều 65 BLHS; xử phạt Nguyễn Ngọc T từ 6 tháng đến 9 tháng tù nhưng cho hưởng án treo hạn thử thách từ 12 đến 18 tháng.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản đầy đủ, không có yêu cầu gì về dân sự nên không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận cầu Giấy, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận cầu Giấy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đứng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định bị cáo có tội:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa khẳng định: Do muốn có tiền tiêu xài nên khoảng 5 giờ 30 phút ngày 18/8/2019, bị cáo Nguyễn Ngọc T đã có hành vi lén lút lấy trộm 01 điện thoại di động Iphone 6S Plus của bà Nguyễn Thị H tại sân vui chơi ngõ 123 Trung Kính, phường Trung Hòa, cầu Giấy, Hà Nội.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa thống nhất và phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp lời khai của người làm chứng, người bị hại, vật chứng, cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Ngọc T đã đủ cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Do đó Viện Kiểm sát nhân dân quận cầu Giấy truy tố bị cáo tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự là đứng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã lợi dụng sơ hở của người bị hại trong quản lý tài sản nên đã lén lút lấy trộm 01 điện thoại di động Iphone 6S Plus trị giá 4.600.000 đồng. Bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Do đó cần có mức hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tăng nặng: Không.

- Giảm nhẹ: Tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu, nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; Bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nên áp dụng điểm i, s khoản 1, khoản 2 điều 51, điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, cho bị cáo cải tạo ngoài xã hội cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành người lương thiện.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung bằng tiền nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo quy định tại khoản 5 điều 173 Bộ luật hình sự.

[6] Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản đầy đủ, không có yêu cầu về dân sự nên Tòa không xem xét.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Người bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Ngọc T phạm tội Trộm cắp tài sản.

- Áp dụng: Khoản 1 điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 điều 51; điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Nguyễn Ngọc T 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng, kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho UBND xã P, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

- Áp dụng: Điều 136; Điều 331; Điều 333; Điều 463 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối Cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của BLHS về án treo.

Nghị quyết 326 /2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; mục A danh mục mức án phí, lệ phí Toà án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không có yêu cầu về dân sự nên Tòa không xem xét.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án, hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 227/2019/HSST ngày 26/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:227/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về