Bản án 227/2017/HS-ST ngày 07/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 227/2017/HS-ST NGÀY 07/12/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cà Mau, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 250/2017/HSST ngày 16 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Ngô Kiệt A; Sinh năm: 1995.

Đăng ký nhân khẩu thường trú: Ấp X, xã L, thành phố M, tỉnh Cà Mau; chổ ở: Ấp X, xã L, thành phố M, tỉnh Cà Mau; Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 10/12; con ông: Ngô Văn M con bà Lê Thị L; Vợ, con: không có; Tiền án, tiền sự: không; Cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 14/9/2017.

Người bị hại: Chị Phan Cẩm E, sinh năm 1989

Địa chỉ: Ấp X, xã L, thành phố M, tỉnh Cà Mau.

(bị cáo có mặt, người bị hại vắng mặt tại phiên tòa)

NHẬN THẤY

Bị cáo Ngô Kiệt A bị Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng 20 giờ ngày 29/8/2017, do cần tiền tiêu xài nên Ngô Kiệt A nảy sinh ý định đột nhập vào nhà người khác để tìm tài sản trộm cắp. Khi đi bộ ngang nhà chị Phan Cẩm E, tạm trú tại ấp X, xã  L, thành phố M, Kiệt A quan sát bên trong nhà không có người nên đi thẳng vào nhà và tìm xung quanh nhưng không phát hiện được gì, Kiệt A tiếp tục đi ra phía sau nhà tìm tài sản để trộm. Lúc này, Kiệt A phát hiện 01 túi xách màu xanh để trên bàn máy may phía  bên trái từ ngoài nhìn vào nên đi đến lấy túi xách và đi ra ngoài thì bị chị E phát hiện truy hô. Kiệt A bỏ chạy ra ngoài được 20m thấy không có ai đuổi theo nên dừng lại mở túi xách vừa trộm được và lục tìm tài sản, Kiệt A lấy tiền bỏ vào túi quần rồi ném bỏ túi xách lại, sau đó tiếp tục đi bộ về nhà thì bị lực lượng Công an xã L mời về làm việc. Quá trình làm việc công an thu giữ các tài sản gồm:

- Tiền Việt Nam 2.054.000 đồng, trong đó có 04 tờ mệnh giá 500.000 đồng; 03 tờ mệnh giá 10.000 đồng; 01 tờ mệnh giá 5.000 đồng; 04 tờ mệnh giá 2.000 đồng; 11 tờ mệnh giá 1.000 đồng;

- 01 giấy chứng minh nhân dân tên Phan Cẩm E;

- 02 thẻ công nhân của Công ty V tên Phan Cẩm E;

- 01 ví da màu đen bên trong có tiền Việt Nam 426.000 đồng;

- 01 điện thoại di động hiệu Oppo F1 màu trắng;

- 01 giấy chứng minh nhân dân và 01 giấy phép lái xe hạnh A1 mang tên Ngô Kiệt A;

- 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 69F4 -4302 mang tên Nguyễn Văn P.

Tại kết luận định giá số 132/KL-HĐĐG ngày 05/9/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Cà Mau kết luận: Tính vào thời điểm tháng 8/2017:

- 01 (một) túi xách nữ hiệu Lin màu xanh (loại có dây đeo), giá trị còn lại 60%: 215.000đ x 60% = 129.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định, số tiền 2.054.000 đồng (hai triệu không trăm năm mươi bốn nghìn đồng); 01 giấy chứng minh nhân dân tên Phan Cẩm E; 02 thẻ công nhân của Công ty V tên Phan Cẩm E là tài sản của chị Phan Cẩm E bị Ngô Kiệt A trộm. Vào ngày 29/8/2017 và ngày 05/10/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố M đã tiến hành trả lại tài sản cho chị Cẩm E. Hiện chị Phan Cẩm E không yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự.

Đối với 01 ví da màu đen bên trong có tiền Việt Nam 426.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Oppo F1 màu trắng; 01 giấy chứng minh nhân dân và 01 giấy phép lái xe hạnh A1 mang tên Ngô Kiệt A; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe môtô biển kiểm soát 69F4 -4302 mang tên Nguyễn Văn P là tài sản và là vật dụng cá nhân của Kiệt A không liên quan đến việc phạm tội nên ngày 16/10/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố M đã tiến hành trả lại tài sản cho Ngô Kiệt A.

Tại cáo trạng số: 225/KSĐT-KT ngày 15 tháng 11 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau đã truy tố Ngô Kiệt A về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự

Tại phiên tòa, Đại diện viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo theo cáo trạng đã nêu và đề nghị:

Tuyên bố bị cáo Ngô Kiệt A phạm tội “trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g,h,p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 60 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Ngô Kiệt A từ 06 tháng đến 09 tháng tù, nhưng cho bị cáo hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 12 tháng đến 18 tháng.

Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị cáo chiếm đoạt của chị Phan Cẩm E, hiện chị E đã nhận lại số tài sản mất trộm, hiện chị không yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự và hình sự.

Tại tòa, bị cáo Ngô Kiệt A thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

XÉT THẤY

Lời khai nhận của bị cáo Ngô Kiệt A tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với  lời khai của bị hại chị Phan Cẩm E và các chứng cứ khác có tại hồ sơ từ đó đủ cở sở kết luận:

Vào khoảng 20 giờ ngày 29/8/2017, bị cáo lén lút trộm cắp tài sản của chị Phan Cẩm E là một túi xách hiệu Lin trị giá 129.000 đồng, bên trong túi xách có số tiền là 2.054.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 2.183.000 đồng.

Khi phạm tội, bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo biết rõ trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì mục đích tư lợi bất chính, cũng như muốn có tiền tiêu xài để thỏa mãn nhu cầu cá nhân, mà bị cáo đã thực hiện tội phạm hoàn thành với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự đúng như Viện kiểm sát đã truy tố.

Xét thấy, hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại, gây mất an ninh trật tự xã hội tại địa phương, nên cần có hình phạt tương xứng với tính chất và hành vi mà bị cáo đã gây ra nhằm đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng xem xét đến tình tiết bị cáo có nhân thân tốt không tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu trong trường hợp ít nghiêm trọng, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị không lớn, người bị hại có đơn bãi nại xin không xem xét xử lý hình sự đối với bị cáo, nên đây là những tình tiết giảm nhẹ khi lượng hình cho bị cáo.

Trên cơ sở phân tích, đánh giá nêu trên và đối chiếu với quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có nhân thân tốt, có địa chỉ thường trú rõ ràng, bản thân bị cáo là quân nhân mới xuất ng   vào tháng 7 năm 2016, sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự 02 năm tại sư đoàn BB330 – Quân khu 9, hiện bị cáo đang học bằng lái xe để tìm công việc làm phụ giúp cho gia đình đang trong hoàn cảnh khó khăn, nếu không bắt bị cáo đi chấp hành hình phạt tù c  ng không gây nguy hiểm cho xã hội, không gây ảnh hưởng xấu trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, mà cho bị cáo hưởng án treo tạo điều kiện cho bị cáo về địa phương giám sát, giáo dục c  ng đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt cho xã hội. Đồng thời, thể hiện được chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội biết ăn năn, hối cải như bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự:  Hiện bị hại chị Phan Cẩm E không yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự nên không đề cập xem xét.

Về thủ tục tố tụng, người bị hại chị Phan Cẩm E có đơn xin vắng mặt tại phiên xét xử và không có yêu cầu gì trách nhiệm dân sự  đối với bị cáo Ngô Kiệt A nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị Phan Cẩm E.

Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố: Bị cáo Ngô Kiệt A phạm tội  “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: khoản 1 Điều 138; điểm g,h,p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 60 Bộ luật hình sự .

Xử phạt: Bị cáo Ngô Kiệt A 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho bị cáo hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm, thời hạn được tính kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo Ngô Kiệt Anh cho Ủy ban nhân dân xã L, thành phố M, tỉnh Cà Mau giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

2/ Căn cứ Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng bị cáo phải nộp (chưa nộp).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 227/2017/HS-ST ngày 07/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:227/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về