Bản án 226/2020/HS-ST ngày 27/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH T

BẢN ÁN 226/2020/HS-ST NGÀY 27/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 5 năm 2020 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố TH, tỉnh TH xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 208/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 214/2020/QĐXXST- HS ngày 07 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Hoàng H - tên gọi khác: Không; sinh năm 1981 tại TH; Nơi ĐKNKTT: Tổ X, phường H, thành phố TH, tỉnh TH; Chỗ ở: Tổ Y, phường Q, thành phố TH, tỉnh TH; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề ngH: Lao động tự do; Con ông Trần Duy B, sinh năm 1949 và con bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1956; Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Thu H1, sinh năm 1979 (đã ly hôn), hiện đang chung sống như vợ chồng với Dương Thị L, sinh năm 1989; Có 04 con, con lớn nhất sinh năm 2004, con nhỏ nhất sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Tại bản án số 396/2010/HSST ngày 10/12/2010 Tòa án nhân dân thành phố TH xử phạt 36 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 53 tháng về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Nộp án phí ngày 11/4/2017.

Hiện bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TH từ ngày 18/02/2020 cho đến nay. (Có mặt tại phiên tòa)

- Người chứng kiến: Ông Nguyễn Đức T, sinh năm 1971- trú tại tổ Z, phường Q, thành phố TH (Vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 00 phút ngày 18/02/2020, tổ công tác của phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh TH nhận được tin báo của quần chúng nhân dân với nội dung: Tại căn hộ 7E12 tòa nhà A4 chung cư Tiến Bộ thuộc tổ Y, phường Q, thành phố TH có các đối tượng đang tụ tập mua bán trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã tiến hành xác minh, phát hiện một nam thanh niên có biểu hiện liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, nam thanh niên tự khai tên là Trần Hoàng H. H khai đang cất giấu ma túy trong người. Tổ công tác thu giữ tại túi áo khoác bên trái H đang mặc 01 túi nilon màu xanh bên trong có chứa 05 viên nén màu hồng. H khai là ma túy tổng hợp (hồng phiến) của H, mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra còn thu giữ của H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung vỏ màu xanh.

Cùng ngày, thực hiện Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần Hoàng H tại tổ Y, phường Q, thành phố TH thu giữ 01 chai nhựa màu trắng có gắn ống hút bằng nhựa, 01 chứng minh nhân dân mang tên Trần Hoàng H và số tiền 2.000.000đ.

Cùng ngày trên, tiến hành mở niêm phong cân xác định: Số viên nén màu hồng thu giữ của Trần Hoàng H có khối lượng 0,508 gam niêm phong ký hiệu G gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 344/KL -KTHS ngày 26/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH kết luận: Mẫu các viên nén màu hồng trong phong bì ký hiệu G gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,508 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Trần Hoàng H khai nhận: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 17/02/2020, H đi xe ôm từ nhà đến khu vực chợ Đ, thành phố TH mục đích mua ma túy sử dụng cho bản thân. H gặp và mua 05 viên ma túy (hồng phiến) được gói trong túi nilon màu xanh của một người đàn ông không quen biết với giá 300.000đ.

Mua xong H cất ma túy trên vào túi áo khoác bên phải đang mặc rồi đi xe ôm về nhà. H chưa sử dụng số ma túy trên. Đến 11 giờ 00 phút ngày 18/02/2020 khi đang đứng ở trước cửa căn hộ 7E12 thì bị tổ công tác của Công an tỉnh TH lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng như trên.

Vật chứng của vụ án gồm:

+ 01 (một) bì niêm phong ký hiệu G; 01 chai nhựa màu trắng có gắn ống hút bằng nhựa.

+ 01 chứng minh nhân dân mang tên Trần Hoàng H + 01 điện thoại di động Sam Sung số IMEI 1: 358176/10/214945/3; Imei 2:

358177/10/214945/1 có vỏ màu xanh.

+ Số tiền 2.000.000đ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Bản Cáo trạng số 221/CT -VKSTPTN ngày 17 tháng 4 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH đã truy tố bị cáo Trần Hoàng H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Tại phiên tòa, Trần Hoàng H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến.

Trong lời luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Trần Hoàng H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt Trần Hoàng H từ 24 đến 30 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì niêm phong ký hiệu G và 01 chai nhựa màu trắng có gắn ống hút bằng nhựa.

+ Tạm giữ 01 điện thoại di động Sam Sung số IMEI 1: 358176/10/214945/3; Imei 2: 358177/10/214945/1 có vỏ màu xanh. và số tiền 2.000.000đ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam của bị cáo để đảm bảo thi hành án.

+ Trả bị cáo 01 chứng minh nhân dân mang tên Trần Hoàng H Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội.

Phần lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định, hành vi tố tụng của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đều hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố, lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay là hoàn toàn tự nguyện, khách quan và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản cân xác định khối lượng, biên bản mở niêm phong vật chứng, lời khai của những người tham gia tố tụng khác, vật chứng thu giữ, kết luận giám định. Như vậy, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định: Hồi 11 giờ 00 phút ngày 18/02/2020, tại khu vực tổ Y, phường Q, thành phố TH, Trần Hoàng H có hành vi tàng trữ 0,508 gam Methamphetamine với mục đích sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng.

Hành vi trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS Nội dung điều luật:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a, b...

c, Heroine, Methamphetamine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05gam.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma túy hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xét xử nghiêm minh để đảm bảo tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Xét về nhân thân các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử thấy:

Về nhân thân của bị cáo: Năm 2010 Tòa án nhân dân thành phố TH xử phạt 36 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Về phần án phí bị cáo đã thi hành xong. Về phần trách nhiệm dân sự tại Công văn trả lời yêu cầu xác minh số 106/TLXM ngày 19/3/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố TH xác nhận từ khi bản án có hiệu lực đến nay người được thi hành án không có đơn yêu cầu thi hành khoản tiền trên do đó cơ quan Thi hành án không thụ lý, nên áp dụng theo hướng có lợi cho người phạm tội xác định bị cáo không có tiền án.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS. Hội đồng xét xử cân nhắc hình phạt cho bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù, lẽ ra bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS. Tại phiên tòa xác định bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, mua ma túy về sử dụng không mang tính chất vụ lợi. Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Vật chứng của vụ án: + Cần tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì niêm phong ký hiệu G bên trong chứa ma túy và vỏ bao gói mẫu, mặt sau có 02 dấu đỏ của phòng KTHS – Công an tỉnh TH và 01 chai nhựa màu trắng có gắn ống hút bằng nhựa không còn giá trí sử dụng.

+ 01 điện thoại di động Sam Sung số IMEI 1: 358176/10/214945/3; Imei 2:

358177/10/214945/1 có vỏ màu xanh và số tiền 2.000.000đ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam của bị cáo, quá trình xác minh không liên quan đến vụ án song cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

+ Trả bị cáo 01 chứng minh nhân dân mang tên Trần Hoàng H.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[8] Về nguồn gốc số Heroin bị thu giữ, bị cáo khai mua của một người đàn ông không quen biết tại khu vực chợ Đồng Quang, thành phố TH. Quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của người này, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TH không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự Tuyên bố: Bị cáo Trần Hoàng H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý"

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Trần Hoàng H 20 (Hai mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/02/2020.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì niêm phong ký hiệu G bên trong chứa ma túy và vỏ bao gói mẫu, mặt sau có 02 dấu đỏ của phòng KTHS – Công an tỉnh TH và 01 chai nhựa màu trắng có gắn ống hút bằng nhựa.

+ Tạm giữ 01 điện thoại di động Sam Sung số IMEI 1: 358176/10/214945/3; Imei 2: 358177/10/214945/1 có vỏ màu xanh, số tiền 2.000.000đ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Ủy nhiệm chi số 40 ngày 10/4/2020) của bị cáo để đảm bảo thi hành án.

+ Trả bị cáo 01 chứng minh nhân dân mang tên Trần Hoàng H (Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận số 247 ngày 20/4/2020 giữa Công an thành phố TH với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TH)

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Trần Hoàng H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp Ngân sách Nhà nước. Án xử công khai sơ thẩm báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 226/2020/HS-ST ngày 27/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:226/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về