Bản án 226/2018/HNGĐ-ST ngày 26/06/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PT, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 226/2018/HNGĐ-ST NGÀY 26/06/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 26 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện PT xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 106/2018/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 3 năm 2018 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 87/2018/QĐXXST–HNGĐ ngày 18 tháng 5 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Mộng N, sinh năm 1997. Địa chỉ: Thôn 22, xã HK, thành phố BMT, tỉnh Đắk Lắk.

2. Bị đơn: Anh Đỗ Văn T, sinh năm 1993.

Địa chỉ: ấp PL, xã PL, huyện PT, tỉnh An Giang.

( Chi N có đơn xét xử vắng mặt, anh T vắng mặt không lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, nguyên đơn chị Trần Thị Mộng N trình bày: Sau khi tìm hiểu vào năm 2015 và chị với anh T được cha mẹ hai bên tổ chức lễ cưới và anh chị tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã HK, thành phố BMT, tỉnh Đắk Lắk và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 101, quyển số 01/2015, ngày 03/8/2015. Sau khi kết hôn, vợ chồng cùng đi làm công nhân ở Bình Dương. Sau cưới, cuộc sống chung của vợ chồng có hạnh phúc, đến đầu năm 2016 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn do anh T không chí thú làm ăn, không quan tâm chăm sóc vợ con, chị có nhiều lần khuyên ngăn nhưng anh T không sửa đổi, đến khoảng tháng 8/2016 anh T bỏ đi, vợ chồng ly thân từ đó đến nay, chị cảm thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn được.

Nay, chị N yêu cầu ly hôn với anh Đỗ Văn T.

Về con chung: tên Đỗ Minh Đ, sinh ngày 16/6/2015, hiện đang sống với chị, chị N yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng.

Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: không nợ ai, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, chị N không có ý kiến nào khác.* Anh Đỗ

Văn T được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do nên tòa án không ghi nhận ý kiến của anh T.

Tại phiên tòa, anh Đỗ Văn T vẫn vắng mặt, không lý do.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu: Thẩm phán, Hội đồng xét xử; nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không lý do thể hiện ý thức chấp hành pháp luật chưa nghiêm.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Chị N, anh T có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Trong thời gian anh chị sống chung phát sinh nhiều mâu thuẫn và ly thân từ giữa năm 2016 cho đến nay nhưng vẫn không hàn gắn được hạnh phúc gia đình, nên nguyên đơn xin ly hôn với bị đơn là phù hợp quy định pháp luật.

Về con chung: Cháu Đỗ Minh Đ, sinh ngày 16/6/2015, hiện đang sống với chị N, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng là phù hợp với quy định pháp luật. Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định: [1] Về tố tụng:

Chị Trần Thị Mộng N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Đỗ Văn T nên quan hệ pháp luật của vụ án “Tranh chấp hôn nhân gia đình - ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

Anh Đỗ Văn T với tư cách là bị đơn trong vụ kiện có nơi cư trú tại ấp PL, xã PL, huyện PT, tỉnh An Giang nên căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện PT, tỉnh An Giang. Chị N có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt, anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 vẫn vắng mặt không lý do. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt đối với chị N, anh T.

[2] Về hôn nhân: Anh chị được cha mẹ hai bên tổ chức lễ cưới và tự nguyện đi đăng ký kết hôn tại UBND xã HK, thành phố BMT, tỉnh Đắk Lắk và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 101, quyển số 01/2015, ngày 03/8/2015 theo quy định tại khoản 1, khoản 5 Điều 3, Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì quan hệ vợ chồng của anh chị được pháp luật công nhân. Tuy nhiên, chị N nhận thấy không còn tình cảm với anh T, cuộc sống chung không thể kéo dài vì ly thân trên 2 năm mà anh chị không liên hệ, cả hai không mong muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Hội đồng xét xử nhận định: cuộc sống chung của anh T, chị N không hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn của chị N đối với anh T là có căn cứ. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị N đối với anh T.

[3] Về con chung tên Đỗ Minh Đ, sinh ngày 16/6/2015, hiện đang sống với chị N, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con, anh T không có ý kiến phản đối hay tranh chấp gì từ khi Tòa án thụ lý đến ngày xét xử nên Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Đ cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng đến thành niên hoặc tự lập được. Tuy nhiên, chị N phải tạo điều kiện thuận lợi khi anh T đến thăm nom và giáo dục con sau khi ly hôn, không ai được cản trở anh T thực hiện quyền này được quy định tại Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình, vì lợi ích của con chung, một trong hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con; cấp dưỡng cho con theo quy định pháp luật.

Về cấp dưỡng: Chị N không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: chị N không yêu cầu, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị N phải chịu án phí hôn nhân gia đình, anh T không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 147; Điều 227; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ Điều 3; Điều 8; Điều 9; Điều 51; Điều 53; Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình 2014; Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Trần Thị Mộng N đối với anh Đỗ Văn T.

Về con chung: chị N được quyền tiếp tục nuôi dưỡng cháu Đỗ Minh Đ, sinh ngày 16/6/2015 đến thành niên hoặc tự lập được. Chị N phải tạo điều kiện thuận lợi khi anh T đến thăm nom, nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục con. Anh T lợi dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị N có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh T. Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng cho con theo quy định pháp luật.

Về cấp dưỡng cho con: Chi N không yêu cầu, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị Trần Thị Mộng N phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm được khấu trừ vào biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005276 ngày 26 tháng 3 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện PT. Anh Đỗ Văn T không phải chịu án phí.

Chị N, anh T được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 226/2018/HNGĐ-ST ngày 26/06/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:226/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về