TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 226/2017/HSPT NGÀY 14/08/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB
Ngày 14/8/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 186/2017/HSPT ngày 26/6/2017, đối với bị cáo Đỗ Văn A, về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, đối với bản án hình sự sơ thẩm số 06/2017/HSST ngày 18/05/2017, của Tòa án nhân dân huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk.
Bị cáo bị kháng nghị:
Họ và tên: Đỗ Văn A, sinh ngày 27/5/1994, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố N, thị trấn K, huyện KB, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; con ông Đỗ Văn B; sinh năm 1961 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1961; hiện bố mẹ bị cáo trú tại tổ dân phố N, thị trấn K, huyện KB, tỉnh Đắk Lắk; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: Không; tiền sự: Không.
Nhân thân: Tại bản án số 11/2011/HSST ngày 22/4/2011, của Tòa án nhân dân huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk đã xử phạt bị cáo 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích”, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt.
Tại bản án số 21/2016/HSST, ngày 29/9/2016 của Tòa án nhân dân huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk, xử phạt bị cáo 09 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Bị cáo đang chấp hành án theo Quyết định thi hành án số 32 ngày 31/10/2016, của Tòa án nhân dân huyện Krông Bông, từ ngày 08/11/2016, “có mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23 giờ, ngày 24/8/2016 Cao Sỹ N, Trịnh Xuân H1, Nguyễn Duy H2 và YD H’Druê đang hát Karaoke tại quán Nguyên V ở tổ dân phố M, thị trấn K, huyện KB. Do đã khuya nên Huỳnh Đ1 là nhân viên phục vụ quán nói mọi người nghỉ đến quán đóng cửa. Vì vậy, N và Trịnh Xuân H1 rủ YD H’Druê, Nguyễn Huy H2 đi thành phố B chơi thì mọi người đồng ý. Trên đường về gặp Đỗ Văn A nên N rủ A đi chơi cùng, do không có tiền nên A không chịu đi thì N nói: “đi chơi với bọn ta mà lo tiền gì, tiền để bọn ta lo”. Nghe vậy, nên A đồng ý đi. Tất cả lên trước sân vận động huyện KB thì N mượn xe của YD H’Druê chạy xuống quán Karaoke Nguyên V và rủ Đ1 đi chơi thì Đ1 đồng ý lên xe N chở lên sân vận động, N đi đến chỗ Trịnh Xuân H1 và A. Còn Đ1 đi đến chỗ Nguyễn Duy H2, YD H’Druê. Tất cả bàn tính đi thành phố B bằng xe mô tô thì A nói: “xe tao hết xăng rồi, tao không đi đâu”. N nói thuê xe ô tô đi và hỏi A có số điện thoại của Ngô Văn Đ2, trú tại thôn C, xã T, huyện KB không thì A nói có, rồi A lấy điện thoại của N bấm số của Đ2 để gọi. Khi gặp Đ2, A nói “anh Đ2 có người muốn thuê xe”, Đ2 hỏi “ai vậy?” thì A đưa máy cho N. N nói với Đ2 là muốn thuê xe và hỏi giá thì Đ2 trả lời là 800.000đ (Tám trăm nghìn đồng). N tắt điện thoại để hỏi ý kiến mọi người thì tất cả đồng ý. Trịnh Xuân H1 hỏi: “A mi có lái xe được không” thì A trả lời: “lái được”. A chạy xe mô tô chở Trịnh Xuân H1 xuống trước bệnh viện đa khoa huyện KB gặp Đ2. Tại đây Đ2 đưa chìa khóa xe ô tô biển kiểm soát 47A-154.56 cho A. A điều khiển xe chở Trịnh Xuân H1 ngồi ghế trước lên đến sân vận động huyện đón Nguyễn Duy H2, YD H’Druê, N và Đ1 lên xe ngồi theo thứ tự từ trái qua phải ngồi dãy ghế phía sau tài xế. A điều khiển xe chạy nhanh nên mọi người trong xe nhắc nhở A chạy chậm lại nhưng A vẫn điều khiển xe chạy với tốc độ nhanh. Khi A điều khiển xe đến Quốc lộ 27, thuộc thôn Q xã Giang R, huyện KB thì xe bị sạc lề bên phải. A đánh tay lái sang trái, do xe đang chạy ở tốc độ cao nên A không kịp xử lý để xe đâm vào lề đường bên trái, rồi tông vào bờ đất, xe lật úp đập phần mui xe phía xe vào trụ cổng nhà ông Nguyễn Văn K làm sập trụ cổng và mảng tường bằng xi măng dài 3m. Sau khi va chạm vào trụ cổng, xe văng ra đường lật 04 bánh lên trời. Hậu quả Cao Sỹ N, Trịnh Xuân H1, Nguyễn Duy H2, YD H’Druê và Huỳnh Đ1 bị thương, riêng A chỉ bị xây xước nhẹ ở tay và cổ, xe ô tô bị hư hỏng nặng.
Kết quả khám nghiệm hiện trường: Vụ tai nạn giao thông xảy ra tại Quốc lộ 27, thuộc thôn Q, xã Giang R, huyện KB, tỉnh Đắk Lắk là đoạn đường thẳng, có dốc cao, được trải nhựa rộng 5m80, không có vạch sơn kẻ liền chia cách thành 2 phần đường xe chạy, không có đèn chiếu sáng, không có biển báo hiệu giao thông đường bộ, tầm nhìn thông thoáng, không có vật che khuất. Quá trình khám nghiệm hiện trường: Thống nhất lấy mép đường bên phải theo hướng từ huyện L đi huyện CK làm mép đường chuẩn cho tất cả các số đo tại hiện trường, lấy trụ điện số 108/10 nằm ở ngoài phần đất bên trái theo hướng từ huyện L đi huyện CK là điểm mốc khóa chốt cho các số đo.
Tại thời điểm khám nghiệm xe ô tô 47A-154.56 nằm ngả nghiêng bên trái và nằm ra giữa đường. Đầu xe hướng vào lề trái, đuôi xe hướng vào lề phải tính theo hướng đi của xe từ huyện L đi huyện CK; đo từ tâm trục trước của xe vào mép đường chuẩn là 4m60; đo tâm trục sau của xe vào mép đường chuẩn là 1m90.
Tại hiện trường phát hiện 01 trụ cổng bị đổ, đo từ tâm trụ cổng đến trục trước của xe ô tô là 10m90; đo từ tâm trụ cổng đến trục sau của xe ô tô là 12m30.
Tại hiện trường phát hiện 01 vết lốp ký hiệu là (03), được xác định là vết lốp do xe ô tô biển kiểm soát 47A-154.56 nằm bên trái (ngay mép đường chuẩn) trước khi xảy ra tai nạn để lại và có. Kích thước vết lốp 27cmx30cm có chiều hướng từ huyện L đi huyện CK; đo từ đầu vết lốp vào mép đường chuẩn là 40cm; đo từ cuối vết lốp vào mép đường chuẩn là 40cm.
Tại hiện trường phát hiện 02 vệt trắng, trước khi va chạm với trụ cổng nhà ông Nguyễn Văn K để lại, 02 vết kéo dài từ lề bên phải đường nhựa sang lề bên trái đường có hướng từ huyện L đi huyện CK, vệt trắng cách nhau 1m60.
Vệt trắng 01 có kích thước 30m50x20cm, đo từ đầu vết trắng vào mép đường chuẩn là 40cm; đo từ cuối vết trắng vào mép đường chuẩn là 7m10; đo từ cuối vết trắng đến tâm trục trước của xe ô tô là 12m50.
Vệt trắng 02 có kích thước 28m50 x20cm, đo từ đầu vết trắng vào mép đường chuẩn là 1m60; đo từ cuối vệt trắng vào mép đường chuẩn là 08m; đo từ cuối vệt trắng đến tâm trục trước của xe ô tô là 14m.
Đo từ trục trước của xe ô tô đến trụ điện là 17m30; đo từ trụ điện đến trục sau của xe ô tô là 19m70 và đo từ trụ điện đến trụ cổng là 15m.
Kết quả khám nghiệm phương tiện xe ô tô biển kiểm soát 47A-154.56 đã kết luận xe bị hư hỏng hoàn toàn không hoạt động được.
Ngày 04/11/2016, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk ra quyết định trưng cầu giám định thương tích đối với Trịnh Xuân H1, Cao Sỹ N, Nguyễn Duy H2, YD H’Druê và Huỳnh Đ1. Tại bản kết luận pháp y thương tích số 1206, 1207/PY-TgT ngày 04/11/2016 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận: Tỷ lệ thương tích của Trịnh Xuân H1 “gãy thân xương đùi 21%”, Cao Sỹ N “đa chấn thương, yếu ½ người phải 30%”. Tại bản kết luận pháp y thương tích số 1292, 1293 và 1294/PY-TgT ngày 25/11/2016 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận: Tỷ lệ thương tích của Nguyễn Duy H2 “vỡ khối xương vùng hàm mặt 30%”, YD H’Druê “vỡ cột sống D12, yếu 02 chi dưới 30%”; Huỳnh Đ1 “đa thương vỡ xoan hàm trái 16%”. Tổng tỷ lệ thương tích là 127%.
Ngày 01/11/2016, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk ra quyết định trưng cầu định giá tài sản, định giá phần thiệt hại của xe ô tô biển kiểm soát 47A-154.56. Kết luận về việc định giá tài sản như sau: Phụ tùng, linh kiện xe ForTuner là 547.698.000đ và thiệt hại về cổng, tường rào là 5.220.800đ; tổng giá trị tài sản định giá là 552.918.800đ (Năm trăm năm mươi hai triệu, chín trăm mười tám nghìn, tám trăm đồng).
Vật chứng của vụ án tạm giữ gồm: Một xe ô tô Toyota nhãn hiệu ForTuner biển kiểm soát 47A-154.56. Quá trình điều tra, xét thấy không cần thiết phải tạm giữ xe ô tô nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Bông đã ra quyết định xử lý vật chứng số 35 ngày 02/11/2016, trả lại xe ô tô biển kiểm soát 47A-154.56 cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Ngô Văn Đ2.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 06/2017/HSST ngày 18/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Krông Bông đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Văn A phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.
Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1 Điều 46; Điều 47; Điều 33 Bộ luật hình sự 1999.
Xử phạt: Bị cáo Đỗ Văn A 02 (Hai) năm tù.
Áp dụng Điều 51 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt 09 (Chín) tháng tù của bản án số 21/2016/HSST ngày 29/9/2016 của Tòa án nhân dân huyện Krông Bông. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 02 năm 09 tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án, theo Quyết định thi hành án số 32 ngày 31/10/2016, của Tòa án nhân dân huyện Krông Bông, ngày 08/11/2016.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 42 BLHS; Điều 76 BTTTHS, chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Bông ra Quyết định xử lý vật chứng số: 35 ngày 02/11/2016 trả lại một xe ô tô biển kiểm soát 47A – 154.56 cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Ngô Văn Đ2. Trả lại cho bị cáo Đỗ Văn A 01 giấy phép lái xe hạng A1 – B2 số 660144000656, cấp ngày 14/02/2015.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 08/6/2017, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk có quyết định kháng nghị số 07/QĐ-KNPT-P7, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm để sửa bản án sơ thẩm nêu trên đối với bị cáo Đỗ Văn A theo hướng: Không áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự để xét xử đối với bị cáo và tăng mức hình phạt đối với bị cáo.
Kết quả xét hỏi tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đỗ Văn A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng và nội dung vụ án được tóm tắt nêu trên.
Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo và khẳng định: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Đỗ Văn A về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, theo điểm đ khoản 2 Điều 202 là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Cấp sơ thẩm áp dụng Điều 47 BLHS để quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật, xử phạt bị cáo 02 năm tù là chưa nghiêm khắc, chưa tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra. Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng Điều 47 BLHS để quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật đối với bị cáo; áp dụng điểm b khoản 2 Điều 248; khoản 3 Điều 249 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk – Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 06/2017/HSST ngày 18/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk; áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự tuyên phạt bị cáo Đỗ Văn A từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bị cáo không tranh luận gì với quan điểm của Viện kiểm sát, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
[1] Lời khai của bị cáo tại phiên toà phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 23 giờ ngày 24/8/2016 bị cáo Đỗ Văn A điều khiển xe ô tô mang biển kiểm soát 47A- 154.56 chở Trịnh Xuân H1, Nguyễn Duy H2, YD H’Druê, Cao Sỹ N và Hùynh Đ1. Khi A điều khiển xe đi đến Quốc lộ 27, thuộc thôn Q, xã Giang R, huyện KB, tỉnh Đắk Lắk, do không làm chủ được tốc độ đã gây tai nạn, làm 05 người bị thương với tổng tỷ lệ thương tích 127%, thiệt hại về tài sản là 552.918.000 đồng. Vì vậy, Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Đỗ Văn A về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, theo điểm đ khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[2] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đề nghị không áp dụng Điều 47 BLHS và tăng hình phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Ngày 22/4/2011, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk xử phạt 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích”. Sau khi chấp hành xong hình phạt, bị cáo không tự rèn luyện bản thân, ngày 28/5/2016 bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, ngày 29/9/2016 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk xử phạt 09 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Khi hành vi phạm tội của vụ án nói trên chưa được xử lý, Giấy phép lái xe của bị cáo còn đang bị thu giữ, nhưng bị cáo vẫn coi thường pháp luật, tiếp tục điều khiển xe ô tô không tuân thủ các quy tắc về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, không làm chủ được tốc độ, gây tai nạn hậu quả làm 05 người bị thương tổng tỷ lệ thương tích 127 %, thiệt hại tài sản đối với anh Ngô Văn Đ2 là 547.698.000 đồng và thiệt tài sản của anh Nguyễn Văn K là 5.220.800 đồng, tổng cộng 552.918.000 đồng, thuộc trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng. Bị cáo là người có nhân thân xấu, điều đó xác định bị cáo không ăn năn hối cải về hành vi của mình; coi thường pháp luật, sức khỏe, tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới. Cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47 BLHS để quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật đối với bị cáo là không phù hợp, chưa tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra. Do vậy, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng không áp dụng Điều 47 BLHS và tăng hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ, cần chấp nhận.
Ngoài ra, Giấy phép lái xe của bị cáo đã được giải quyết tại bản án số 21/2016/HSST ngày 29/9/2016 của Tòa án nhân dân huyện Krông Bông. Trong quá trình điều tra vụ án, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Bông không thu giữ giấy phép lái xe của bị cáo trong vụ án này. Vì vậy, bản án sơ thẩm đã tuyên trả lại cho bị cáo Đỗ Văn A 01 giấy phép lái xe hạng A1 – B2 số 660144000656 cấp ngày 14/02/2015, là không phù hợp là không có căn cứ. Do đó, cần sửa án sơ thẩm về áp dụng pháp luật và hình phạt theo hướng không áp dụng Điều 47 BLHS để quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của bộ luật đối với bị cáo, tăng hình phạt đối với bị cáo, nhằm trừng trị người phạm tội phát huy tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và để phòng ngừa chung trong toàn xã hội và sửa bản án về phần xử lý vật chứng theo hướng không tuyên trả cho bị cáo Đỗ Văn A 01 giấy phép lái xe hạng A1 – B2 số 660144000656, cấp ngày 14/02/2015.
[3] Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 248; khoản 3 Điều 249 Bộ luật tố tụng hình sự;
Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk –Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 06/2017/HSST ngày 18/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk.
[2] Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Đỗ Văn A 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.
Áp dụng Điều 51 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt 09 (Chín) tháng tù của bản án số 21/2016/HSST ngày 29/9/2016 của Tòa án nhân dân huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 04 (Bốn) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án, theo Quyết định thi hành án số 32 ngày 31/10/2016, của Tòa án nhân dân huyện Krông Bông, ngày 08/11/2016.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 42 BLHS; khoản 2 Điều 76 BTTTHS, chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Bông đã trả cho ông Ngô Văn Đ2 xe ô tô biển kiểm soát 47 A – 15456, là chủ sở hữu hợp pháp.
[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Đỗ Văn A không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 226/2017/HSPT ngày 14/08/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB
Số hiệu: | 226/2017/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/08/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về