Bản án 225/2018/HNGĐ-ST ngày 25/09/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 225/2018/HNGĐ-ST NGÀY 25/09/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 25 tháng 9 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 918/2018/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 8 năm 2018 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 284/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 9 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Phan Thanh T, sinh năm 1975. Địa chỉ: Ấp L, xã G, huyện Đ, tỉnh Long An.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Kiều V, sinh năm 1976. Địa chỉ: Ấp S, thị trấn N, huyện Đ, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 26 tháng 7 năm 2018 và những lời khai tiếp theo trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn anh Phan Thanh T trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị Kiều V chung sống với nhau vào năm 1999, không có đăng ký kết hôn. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được một thời gian, đến đầu năm 2017 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân mâu thuẫn là do cuộc sống vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống. Anh và chị V đã ly thân từ tháng 6 năm 2017 đến nay. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên anh yêu cầu ly hôn chị Nguyễn Thị Kiều V.

Về con chung: Trong quá trình chung sống, anh và chị V có 01 con chung tên Phan Phúc V, sinh ngày 01/4/2002 (hiện nay đang sống với anh). Khi ly hôn, anh yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung; không yêu cầu chị V cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Ngày 13/9/2018, anh T có đơn xin được vắng mặt tại các phiên tòa xét xử vụ án do hiện nay đang đi làm xa, không có điều kiện tham gia phiên tòa.

Tại Bản tự khai, Biên bản hòa giải, bị đơn chị Nguyễn Thị Kiều V trình bày: Chị thống nhất với lời trình bày của anh Phan Thanh T về thời gian chung sống; điều kiện kết hôn; thời gian mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn, thời gian ly thân và con chung. Chị và anh T chung sống với nhau không có đăng ký kết hôn. Nay, anh T xin ly hôn, chị đồng ý.

Về con chung: Chị và anh T có 01 con chung tên Phan Phúc V, sinh ngày 01/4/2002 (đang sống với anh T). Khi ly hôn, chị đồng ý để anh T tiếp tục nuôi dưỡng con chung; chị không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngày 22/8/2018, chị V có đơn xin được vắng mặt tại các phiên tòa xét xử vụ án do hiện nay đang đi làm xa, không có điều kiện tham gia phiên tòa.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện các thủ tục mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Các đương sự thống nhất được toàn bộ nội dung, các chứng cứ đã được giao nộp đầy đủ và được công khai đúng thủ tục nhưng do anh T và chị V chung sống với nhau như vợ chồng không có đăng ký kết hôn nên Tòa án không thể ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải thành cho các đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ các kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1]. Về tố tụng: Anh Phan Thanh T khởi kiện yêu cầu ly hôn với chị Nguyễn Thị Kiều V, chị V hiện có hộ khẩu thường trú tại ấp S, thị trấn N, huyện Đ, tỉnh Long An và có mặt tại địa phương nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tại phiên tòa, nguyên đơn anh Phan Thanh T và bị đơn chị Nguyễn Thị Kiều V vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; căn cứ vào khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

 [2]. Về quan hệ hôn nhân: Anh Phan Thanh T và chị Nguyễn Thị Kiều V chung sống với nhau vào năm 1999 nhưng đến nay không có đăng ký kết hôn nên hôn nhân của anh T và chị V không được xem là hôn nhân hợp pháp, đã vi phạm vào Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

 [3]. Trong quá trình chung sống, anh T và chị V phát sinh mâu thuẫn do cuộc sống vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống. Anh T và chị V đã ly thân từ tháng 6 năm 2017 đến nay. Tại Bản tự khai và Biên bản hòa giải, anh T và chị V đều xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không thể hàn gắn và đồng ý ly hôn. Do anh T và chị V chung sống với nhau không có đăng ký kết hôn nên Hội đồng xét xử không công nhận anh Phan Thanh T và chị Nguyễn Thị Kiều V là vợ chồng.

 [4]. Về con chung và cấp dưỡng: Anh T và chị V có một con chung tên Phan Phúc V, sinh ngày 01/4/2002 (đang sống với anh T). Tại Bản tự khai và Biên bản hòa giải, anh T và chị V thống nhất anh T được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Xét thấy việc thỏa thuận nuôi con chung của anh chị phù hợp với nguyện vọng của con chung Phan Phúc V và phù hợp với khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Anh T không yêu cầu chị V cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [5]. Về tài sản chung và nợ chung: Anh Phan Thanh T và chị Nguyễn Thị Kiều V thống nhất trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [6]. Về án phí: Anh Phan Thanh T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 9, 14, 15, 53, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Không công nhận anh Phan Thanh T và chị Nguyễn Thị Kiều V là vợ chồng.

- Về con chung: Anh Phan Thanh T được quyền tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên Phan Phúc V, sinh ngày 01/4/2002. Chị V không phải cấp dưỡng nuôi con chung vì anh T không có yêu cầu.

Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, bên trực tiếp nuôi con không được quyền ngăn cản. Khi cần thiết có thể yêu cầu thay đổi quyền nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

2. Về án phí: Anh Phan Thanh T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0003037 ngày 08/8/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An.

Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

266
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 225/2018/HNGĐ-ST ngày 25/09/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:225/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về