Bản án 224/2017/HNGĐ-ST ngày 05/12/2017 về tranh chấp xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 224/2017/HNGĐ-ST NGÀY 05/12/2017 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 05 tháng 12 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 473/2017/TLST- HNGĐ ngày 03 tháng 7 năm 2017 về việc “Xin ly hôn”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 209/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 19/10/2017 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1990 (Có mặt). Địa chỉ: Tổ 6, Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

* Bị đơn: Anh Võ Văn M, sinh năm 1980 (Có đơn xin vắng mặt). Địa chỉ: Ấp D, xã F, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn chị Nguyễn Ngọc L trình bày: Chị và anh M do mai mối và xác lập quan hệ hôn nhân vào năm 2009, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã F, huyện C, tỉnh Tiền Giang vào ngày 27/12/2010, theo giấy chứng nhận kết hôn số 150/2010, quyển số 01/2010.

Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng nhiều năm sau đó xảy ra mâu thuẫn giữa vợ chồng, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, anh M không quan tâm đến vợ con, ham mê cờ bạc, không lo làm ăn, không dung hòa được mâu thuẫn trong gia đình, nên chị và anh M đã ly thân hơn 01 năm trước khi anh M bị bắt, từ khi anh M vướng vào vòng lao lý thì mẹ anh M càng khắc khe với chị, không cho con chị được đi học, mâu thuẫn gia đình giữa chị với cha mẹ chồng ngày càng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống hôn nhân không thể kéo dài được nữa.

Trước đây chị đã nộp đơn khởi kiện xin ly hôn với anh M nhưng chị đã rút đơn khởi kiện với lý do để anh M an tâm cải tạo nhưng do cha mẹ chồng chị là Võ Văn K và Nguyễn Thị M cứ thường xuyên tung tin chị bỏ gia đình đi lấy chồng khác trong khi anh M đang cải tạo, làm xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của chị nên nay chị tiếp tục khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Võ Văn M.

- Về con chung: Có 01 con chung, cháu tên Võ Trọng K, sinh ngày 18/7/2011. Hiện đang sống chung với chị, khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn anh Võ Văn M: Có đơn xin vắng mặt nhưng tại biên bản lấy lời khai anh M trình bày rằng còn thương vợ thương con, nay chị L cương quyết ly hôn anh cũng đồng ý ly hôn nhưng về con chung anh không chấp nhận giao cháu Võ Trọng K cho chị L nuôi dưỡng, anh yêu cầu giao lại cho cha mẹ anh là Võ Văn K và bà Nguyễn Thị M nuôi dưỡng.

- Về tài sản chung của vợ chồng: Không có.

- Về nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của nguyên đơn được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Hôn nhân của chị Nguyễn Ngọc L và anh Võ Văn M do mai mối và xác lập quan hệ hôn nhân vào năm 2009, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã F, huyện C, tỉnh Tiền Giang vào ngày 27/12/2010, theo giấy chứng nhận kết hôn số 150/2010, quyển số 01/2010 cho thấy mối quan hệ hôn nhân của chị L và anh M phù hợp với các Điều 8, 9 Luật hôn nhân gia đình.

Theo lời trình bày của chị thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng nhiều năm sau đó xảy ra mâu thuẫn giữa vợ chồng, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, anh M không quan tâm đến vợ con, ham mê cờ bạc, không lo làm ăn, không dung hòa được mâu thuẫn trong gia đình nên chị và anh M đã ly thân hơn 01 năm trước khi anh M bị bắt, từ khi anh M vướng vào vòng lao lý thì mẹ anh M càng khắc khe với chị, chị xin cắt hộ khẩu cháu K để nhập nơi ở của mẹ ruột chị tạo điều kiện cho cháu K đi học nhưng cha mẹ chồng không chấp nhận và không cho con chị được đi học, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống hôn nhân không thể kéo dài được nữa.

Trước đây chị đã nộp đơn khởi kiện xin ly hôn với anh M nhưng chị đã rút đơn khởi kiện với lý do để anh M an tâm cải tạo nhưng do cha mẹ chồng chị là Võ Văn K và Nguyễn Thị M cứ thường xuyên tung tin chị bỏ gia đình đi lấy chồng khác trong khi anh M đang cải tạo, làm xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của chị nên nay chị tiếp tục khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Võ Văn M.

Đối với anh Võ Văn M tại biên bản ghi lời khai anh M cho rằng mâu thuẫn vợ chồng không có gì trầm trọng, anh vẫn còn thương vợ và con, nhưng nay vợ anh chị L cương quyết ly hôn anh chấp nhận ly hôn.

Hội đồng xét xử thấy rằng mối quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh M đã thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Ngọc L.

- Về con chung: Có 01 con chung, cháu tên Võ Trọng K, sinh ngày 18/7/2011. Hiện đang sống chung với chị, khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con. Đối với anh M, anh không chấp nhận giao cháu Võ Trọng K cho chị L nuôi dưỡng anh yêu cầu giao cháu lại cho cha mẹ ruột anh nuôi, anh không yêu cầu cấp dưỡng, Hội đồng xét xử thấy rằng việc nuôi con là trách nhiệm của vợ chồng, nay anh M đang thụ án tại trại giam Phước Hòa, chị L là mẹ ruột của cháu K nên trách nhiệm chăm sóc con tốt hơn cha mẹ ruột anh M nên yêu cầu của anh M Hội đồng xét xử không thể chấp nhận được. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Võ Trọng K, sinh ngày 18/7/2011 cho chị L được tiếp tục nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của chị L không yêu cầu anh Võ Văn M cấp dưỡng nuôi cháu Võ Trọng K.

Anh Võ Văn M được quyền thăm nom con chung sau khi ly hôn.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của các đương sự từ khi Tòa án thụ lý đến khi nghị án là đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cái Bè không có ý kiến gì; về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận sự thuận tình ly hôn của chị L và anh M, về con chung đề nghị tiếp tục giao cháu Võ Trọng K cho chị L nuôi dưỡng.

Vì các lẽ trên

Áp dụng:

QUYẾT ĐỊNH

- Các Điều 8, 9, 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014.

- Điều 170, 171, 172, 177, 183, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giãm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

- Về tình cảm: Chị Nguyễn Ngọc L được ly hôn với anh Võ Văn M.

- Về con chung: Có 01 con chung cháu tên Võ Trọng K, sinh ngày 18/7/2011, hiện đang sống chung với chị Nguyễn Ngọc L, tiếp tục giao cháu Võ Trọng K, sinh ngày 18/7/2011 cho chị Nguyễn Ngọc L được tiếp tục nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Ngọc L không yêu cầu anh Võ Văn M cấp dưỡng nuôi con.

Anh Võ Văn M được quyền thăm nom con chung sau khi ly hôn.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị Nguyễn Ngọc L phải chịu 300.000đồng tiền án phí hôn nhân sơ thẩm. Chị đã nộp 300.000đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 07126 ngày 03/7/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Tiền Giang, xem như chị L nộp xong án phí.

Chị Nguyễn Ngọc L được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án, anh Võ Văn M được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày được tống đạt bản án, hoặc kể từ ngày được niêm yết bản án tại nơi cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 224/2017/HNGĐ-ST ngày 05/12/2017 về tranh chấp xin ly hôn

Số hiệu:224/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về