Bản án 223/2020/HS-ST ngày 11/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 223/2020/HS-ST NGÀY 11/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 212/2020/TLST- HS ngày 23 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 221/2020/QĐXXST- HS ngày 30 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê Hồng D, sinh năm 1990 tại tỉnh Bến Tre. Nơi cư trú: Ấp T, xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn K, sinh năm 1957 và bà Phạm Thị Ngọc M, sinh năm 1962; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không có.

Bị bắt, tạm giam ngày 28/3/2020. Có mặt.

Người làm chứng: Ông Trần Văn N. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 28 tháng 3 năm 2020, khi tổ tuần tra của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma túy Công an thị xã (nay là thành phố) Thuận An, tỉnh Bình Dương phối hợp cùng Công an phường B tiến hành tuần tra đến khu vực trước kho gạch men A địa chỉ 63/18 khu phố P, phường B, thành phố T, tỉnh Bình Dương thì phát hiện bị cáo Lê Hồng D đang đi bộ trên đường có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra, bị cáo D khai nhận bản thân có sử dụng ma túy đồng thời lực lượng công an phát hiện bên trong chiếc khẩu trang màu xanh đen D đang đeo trên mặt có 01 (một) túi nylon miệng kéo dính bên trong có 04 gói nylon hàn kín đều chứa tinh thể màu trắng, D khai nhận đây là ma túy đá nên lực lượng Công an tiến hành lập biên bản niêm phong tang vật đưa đối tượng D về trụ sở Công an làm việc.

Qua điều tra, bị cáo Lê Hồng D khai nhận vào khoảng 21 giờ ngày 28/3/2020, D mua gói ma túy trên với tổng số tiền 700.000đồng của một người đàn ông không rõ lai lịch ở khu vực gần ngã tư M thuộc địa bàn phường B, thành phố T, bị cáo cất giấu số ma túy trên để sử dụng, sau đó thì bị lực lượng công an kiểm tra bắt giữ.

Ngày 06/4/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương có kết luận giám định số 181/MT-PC09 với nội dung: Mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,4762gam; loại Methamphetamine.

Tại bản Cáo trạng số 228/CT-VKS -TA ngày 23/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Lê Hồng D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà trình bày lời luận tội trong đó có nội dung vẫn giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ, hâ u quả hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Lê Hồng D từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù đến 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù.

Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 bì thư niêm phong ghi số 181/PC09 là vật chứng trong vụ án nên đề xuất tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 khẩu trang màu xanh đen bị cáo dùng để chứa ma túy không còn giá trị sử dụng đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu, tiêu hủy.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo, hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch, khi nào xác minh được sẽ xử lý sau.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng theo nội dung Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo đã ăn năn hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại, tố cáo về các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Hồng D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo trước Tòa. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của người làm chứng, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 28/3/2020, tại khu vực trước kho gạch men A địa chỉ 63/18 khu phố P, phường B, thành phố T, tỉnh Bình Dương, bị cáo Lê Hồng D thực hiện hành vi tàng trữ 01 (một) túi nylon miệng kéo dính bên trong có 04 gói nylon hàn kín đều chứa tinh thể màu trắng, qua giám định xác định mẫu tinh thể trên là ma túy, có khối lượng 0,4762gam, loại Methamphetamine.

Do đó, Cáo trạng truy tố bị cáo Lê Hồng D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận thức được hành vi cố ý tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng là vi phạm pháp luật Hình sự nhưng để thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã cất giấu ma túy, hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền về quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Vì vậy phải xét xử mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng cho bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo, hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch, khi nào xác minh được sẽ xử lý sau.

Lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát có căn cứ, đúng pháp luật nên chấp nhận.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 bì thư niêm phong ghi số 181/PC09 là vật chứng trong vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 khẩu trang màu xanh đen bị cáo dùng để chứa ma túy không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Lê Hồng D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lê Hồng D 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 28/3/2020.

2. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy 01 bì thư đã niêm phong ký hiệu 181/MT-PC09 là mẫu vật hoàn lại sau giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương và 01 khẩu trang màu xanh đen.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 15/7/2020).

3. Về án phí:

Buộc bị cáo Lê Hồng D phải nộp 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

252
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 223/2020/HS-ST ngày 11/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:223/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về