Bản án 223/2020/HNGĐ-ST ngày 13/08/2020 về xin ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 223/2020/HNGĐ-ST NGÀY 13/08/2020 VỀ XIN LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 13 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 151/2020/TLST-HNGĐ, ngày 03 tháng 6 năm 2020, về việc: “Xin ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:1159/2020/QĐST-HNGĐ, ngày 28 tháng 7 năm 2020 của TAND huyện T, tỉnh Bình Định, giữa các đương sự:

Nguyên đơn : Mai Thị Hồng Th, sinh năm 1997, có mặt. Địa chỉ: Thôn B 2, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định.

Bị đơn Kiều Quốc Ph, sinh năm 1990, có mặt.

HKTT: Thôn B 2, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định.

Địa chỉ tạm trú: Thôn N1, xã Ph1, huyện T, tỉnh Bình Định.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 20 tháng 5 năm 2020, tại bản tự khai và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Mai Thị Hồng Th trình bày: Giữa chị với anh Kiều Quốc Ph tự tìm hiểu thời gian mấy tháng và đi đến hôn nhân năm 2015 có đăng ký kết hôn ngày13/02/2016 tại UBND xã B, huyện T2. Quá trình chung sống vợ chồng ở nhà ba mẹ chị, nhưng vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn, do chồng chị xúc phạm xỉ nhục cha mẹ chị, có lúc còn đòi đánh cả cha mẹ chị. Thời gian sau vợ chồng bàn bạc thuê nhà ở riêng, nhưng chồng chị cứ về nhà tiếp tục chửi bới xúc phạm cha mẹ chị nên chị tức có cãi lại thì bị anh Ph đánh. Bản thân chị và chồng đã nói chuyện rất nhiều lần nhưng anh vẫn chứng nào tật đó, mỗi lần kình cãi là chồng chị mang ba mẹ chị ra chứi, xúc phạm nặng nề. Mặc dù gia đình hai bên khuyên giải để vợ chồng đoàn tụ nhưng chị không thể hàn gắn. Vợ chồng không chung sống với nhau từ tết âm lịch cho đến nay. Nay chị Th xin ly hôn với anh Kiều Quốc Ph vì vợ chồng không thể hàn gắn đoàn tụ được.

Về quan hệ nuôi con chung: Vợ chồng chị có 02 con chung tên là Kiều Gia H, sinh ngày 27/10/2016, Kiều Gia L, sinh ngày 11/9/2019, hiện hai con đang ở cùng chị, nay ly hôn chị xin nuôi cả hai con, chị Th yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con mỗi đứa 01tháng 01triệu đồng.

Về quan hệ tài sản chung: Vợ chồng chị không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu giải quyết. Ngoài ra chị Th không khai và không yêu cầu gì khác.

Tại bản tự khai và tại phiên tòa hôm nay, bị đơn Kiều Quốc Ph trình bày: Giữa anh với chị Mai Thị Hồng Th tự tìm hiểu và đăng ký ký kết hôn như chị Th khai là đúng. Quá trình chung sống vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, do vợ anh bỏ con ở nhà đi chơi, có khi anh giữ, có khi bà ngoại giữ, trong khi đó vợ anh đi chơi về say xỉn ói mửa, anh đã nhắc nhở nhiều nhưng vợ anh không nghe, nhiều lúc con khóc, anh gọi nhiều lần chị Th cũng không chịu về, bỏ mặc ba cha con anh. Anh Ph thừa nhận có chửi vợ, vì vợ anh không chăm lo các con mà ham chơi, thường xuyên nói láo nên vợ chồng không còn tin tưởng nhau nữa. Việc vợ anh nói láo để đi chơi có lần bị cha vợ đánh. Sau khi vợ chồng kình cãi không ở với nhau nữa thì hai gia đình đến hòa giải thì cha vợ anh nói lại với cha mẹ anh và anh nên anh biết việc vợ anh nói láo và bị ba vợ đánh. Đồng thời gia đình hai bên khuyên giải để vợ chồng đoàn tụ nhưng vợ anh không đồng ý. Hai vợ chồng không ở với nhau từ tết âm lịch cho đến nay. Nay vợ anh xin ly hôn anh mong muốn vợ anh nghĩ lại để vợ chồng đooàn tụ nuôi dạy hai con nhưng vợ kiên quyết thì anh đồng ý ly hôn.

Về quan hệ nuôi con chung: Vợ chồng anh 02 con chung tên là Kiều Gia H, sinh ngày 27/10/2016, Kiều Gia L, sinh ngày 11/9/2019, hiện hai con đang ở cùng vợ anh, nay ly hôn anh Ph xin một trong hai con. Trường hợp Tòa giao con cho vợ anh thì anh đồng ý cấp dưỡng theo yêu cầu của vợ mỗi đứa 01 tháng 01triệu đồng.

Về quan hệ tài sản chung: Vợ chồng anh không có tài sản chung, vợ chồng không có nợ chung nên không yêu cầu giải quyết. Ngoài ra anh Ph không khai và không yêu cầu gì khác.

Tại phiên Toà hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T phát biểu:

Về thủ tục tố tụng : Tòa án đã tiến hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Th và anh Ph. Tuy nhiên về con chung: Cả chị Th và anh Ph đều yêu cầu nuôi cả hai con chung, để đảm bảo cho các cháu được phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần nên đề nghị giao cháu H cho anh Ph trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu L cho chị Th tiếp tục nuôi dưỡng. Về tài sản chung, anh Ph chị Th không yêu cầu nên không xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đây là vụ án Hôn nhân gia đình tranh chấp về ly hôn, , nuôi con chung nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo qui định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Vụ án này có bị đơn là Kiều Quốc Ph đang cư trú tại Thôn B 2, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định; Vụ án không có yếu tố nước ngoài, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bình Định theo qui định tại điểm a Khoản 1 Điều 35 và điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự;

[2] Về nội dung vụ án: Chị Mai Thị Hồng Th và anh Kiều Quốc Ph tự nguyện tìm hiểu và đi đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện T2, tỉnh Bình Định vào ngày 13/01/2016, nên hôn nhân giữa chị Th và anh Ph là hợp pháp. Chị Th xin ly hôn và anh Ph đồng ý vì vợ chồng sống xa nhau không còn tình cảm, mối quan hệ vợ chồng đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt. Do đó, áp dụng Điều 55 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử ghi nhận sự thuận tình ly hôn của chị Th và anh Ph.

Về quan hệ nuôi con chung: Chị Th và anh Ph có 02 con chung tên Kiều Gia H, sinh ngày 27/10/2016, Kiều Gia L, sinh ngày 11/9/2019, hiện hai con đang ở cùng chị Th. Nay ly hôn chị Th và anh Ph đều xin nuôi cả hai con nhưng các bên không đồng ý. Hội đồng xét xử thấy rằng đối với yêu cầu của anh Ph xin nuôi cả hai con, trong khi cháu Kiều Gia L chưa đủ 36 tháng tuổi, và chị Th không đồng ý giao nên không thể giao cháu Lộc cho anh Ph. Đối với yêu cầu của chị Th xin nuôi cả hai con nhưng anh Ph không đồng ý nên không thể xem xét chấp nhận yêu cầu của chị Th. Bỡi vì cả anh Ph và chị Th đều thừa nhận cả hai anh chị đều có công việc ổn định có thể chăm sóc con chung một cách chu đáo, đầy đủ, không ai có hành vi bạo hành, ngược đãi. Như vậy để đảm bảo quyền lợi của các con của chị Th và anh Ph được chăm sóc tốt, đảm bảo phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần thì Hội đồng xét xử thấy việc giao cháu Kiều Gia H cho anh Ph và giao cháu Kiều Gia L cho chị Th nuôi dưỡng là phù hợp. Về cấp dưỡng nuôi con, chị Th và anh Ph không yêu cầu nên Tòa không xét.

Về quan hệ tài sản chung và nợ: Cả chị Th, anh Ph đều khai không có tài sản chung, không có nợ chung và không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Mai Thị Hồng Th phải chịu tiền án phí ly hôn theo qui định tại Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xét ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tphù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 55, 81,82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Ghi nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Mai Thị Hồng Th và anh Kiều Quốc Ph.

Về quan hệ nuôi con chung: Giao con chung của chị Th và anh Ph tên là Kiều Gia H, sinh ngày 27/10/2016 cho anh Kiều Quốc Ph trực tiếp nuôi dưỡng. Giao con chung của chị Th và anh Ph tên là Kiều Gia L, sinh ngày 11/9/2019 cho chị Th tiếp tục nuôi dưỡng, hiện hai con đang ở cùng chị Th. Chị Th và anh Ph không yêu cầu cấp dưỡng nên Tòa không xét.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc làm ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, cũng như việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về quan hệ tài sản chung: Tòa không xét.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Mai Thị Hồng Th phải chịu 300.000đ(Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn để sung vào Ngân sách Nhà nước. Tiền tạm ứng án phí chị Th đã nộp 300.000đồng theo biên lai thu tiền số 0000623, ngày 02/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Bình Định được khấu trừ vào án phí.

Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (Ngày 13/8/2020).

Trường hợp bản án,quyết định được thi hành theo quy đinh tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự,người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án,quyền yêu cầu thi hành án,tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6.7 và 9 luật thi hành án dân sự ,thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

344
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 223/2020/HNGĐ-ST ngày 13/08/2020 về xin ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:223/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tây Sơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về