TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH PHÚ - TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 223/2018/HNGĐ-ST NGÀY 23/03/2018 VỀ LY HÔN
Ngày 23 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện P xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 183/2017/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 12 năm 2017 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 374/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 23/02/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 36/2018/QĐST-HNGĐ ngày 12/3/2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Nguyễn Thị Mỹ T, sinh năm 1992. Nơi cư trú: Số nhà 53/2, ấpTQ, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bến Tre (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
2. Bị đơn: Đặng Văn C, sinh năm 1992. Nơi cư trú: Số nhà 21/3, ấp TH, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bến Tre (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ - nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ T trình bày:
Chị và anh Đặng Văn C cưới nhau vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn P và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 17/02/2014, trong thời gian sống chung có 01 người con chung tên Đặng Thị Mỹ Đ, sinh ngày 29/4/2014. Thời gian đầu sống chung hạnh phúc nhưng sau đó thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do tính tình không hợp nhau, tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt và hiện nay đã ly thân, không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Nay chị yêu cầu về hôn nhân xin được ly hôn với anh C; Về con chung chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Đặng Thị Mỹ Đ, sinh ngày 29/4/2014 và không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng nuôi con chung;
Về tài sản chung, nợ chung: không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn, chị không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.
Bị đơn anh Đặng Văn C vắng mặt và cũng không có ý kiến gửi đến Tòa án.
Kiểm sát viên phát biểu quan điểm giải quyết vụ án cho rằng: Trong quá trìnhthụ lý giải quyết vụ án Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng; Tại phiên tòa Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, các hội thẩm nhân dân,thư ký đã thực hiện đầy đủ theo đúng thủ tục tố tụng; người tham gia tố tụng là nguyênđơn nghiêm túc thực hiện đầy đủ quyền của mình trong quá trình tố tụng, tuy nhiên bị đơn đã vi phạm không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cho chị Nguyễn Thị Mỹ T được ly hôn với anh Đặng Văn C. Về nghĩa vụcấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn do chị T không yêu cầu nên không xem xét. Về con chung: Đặng Thị Mỹ Đ, sinh ngày 29/4/2014 chị T được trực tiếp nuôi dưỡng, anh C không cấp dưỡng nuôi con do chị T không có yêu cầu. Tài sản chung, nợ chung: không có, nên Tòa án không xem xét giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Thẩm quyền giải quyết: Chị Nguyễn Thị Mỹ T yêu cầu ly hôn với anh Đặng Văn C, do bị đơn đang đăng ký thường trú và hiện đang sinh sống tại huyện P nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện P theo quy định các Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về thụ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ T không có mặt tại phiên tòa nhưng có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt. Bị đơn anh anh Đặng Văn C đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng anh C vẫn không có mặt theo yêu cầu của Tòa án và cũng không nêu ý kiến gửi đến Tòa án thì coi như anh C từ bỏ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định. Do đó căn cứ vào các Điều 227, 228, 238 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự này là đúng theo quy định của pháp luật.
[3] Chị Nguyễn Thị Mỹ T và anh Đặng Văn C cưới nhau vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn P vào năm 2014 là hôn nhân hợp pháp. Thời gian đầu sống chung hạnh phúc sau đó phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, hai bên không có thiện chí dung hòa khắc phục mâu thuẫn hiện nay đã ly thân, trong khoảng thời gian không sống chung hai bên không tạo điều kiện cho nhau để hàn gắn tình cảm, cũng như hai bên không có giải pháp nào giải quyết những mâu thuẫn để sum họp gia đình và từ khi ly thân hai bên có cuộc sống riêng tư, không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Đồng thời quá trình giải quyết Tòa án thu thập chứng cứ bằng biện pháp xác minh tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh C thì được địa phương xác nhận tình trạng hôn nhân hai bên đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, bất đồng trong cuộc sống và sinh hoạt. Xác định chị T và anh C đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu xin ly hôn của chị T là có cơ sở phù hợp tại Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận, cho chị T được ly hôn với anh C.
[4] Xét về con chung: Chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng Đặng Thị Mỹ Đ, sinh ngày 29/4/2014 và anh C cũng không có ý kiến yêu cầu tranh chấp nuôi con nên Hội đồng xét xử quyết định giao con chung cho chị T được tiếp tục nuôi dưỡng và anh C không cấp dưỡng nuôi con do chị T không có yêu cầu.
[5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị T trình bày không có, nên Tòa án không xem xét giải quyết.
[6] Chị Nguyễn Thị Mỹ T phải nộp án phí hôn nhân gia đình theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, các Điều 147, 227, 228, 238, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Toà án.
- Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Mỹ T. Cho chị Nguyễn Thị Mỹ T được ly hôn với anh Đặng Văn C. Về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn do chị T không yêu cầu nên Tòa không xem xét.
- Về con chung: Chị Nguyễn Thị Mỹ T được trực tiếp nuôi dưỡng Đặng Thị Mỹ Đ, sinh ngày 29/4/2014 và anh Đặng Văn C không cấp dưỡng nuôi con do chị T không có yêu cầu.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con chung, một hoặc hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con theo qui định.
- Về tài sản chung, nợ chung: Chị T trình bày không có, nên Tòa án không xem xét giải quyết.
- Về án phí hôn nhân và gia đình: Chị Nguyễn Thị Mỹ T phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số: 0014174 ngày 08/12/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện P. Như vậy án phí chị T đã nộp xong.
Đương sự được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự
Bản án 223/2018/HNGĐ-ST ngày 23/03/2018 về ly hôn
Số hiệu: | 223/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Phú - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/03/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về