Bản án 222/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 222/2020/HS-ST NGÀY 30/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 30 tháng 11 năm 2020 tại Tòa án nhân dân Th phố Cẩm Phả xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 215/2020/TLST–HS ngày 13 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 213/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Minh T, tên gọi khác: Không; sinh ngày 07 tháng 6 năm 1993 tại Cẩm Phả- tỉnh Quảng Ninh; nơi cư trú: Tổ H, khu BA, phường Q, Th phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Tự do; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đvà bà Nguyễn Thị M; vợ: Dương Hà L( chung sống như vợ chồng), có 01 con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; ngày bị tạm giữ 09/8/2020, hiện đang tạm giam tại trại tạm giam công an tỉnh Quảng Ninh; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1956; nơi cư trú: Tổ H, khu BA, phường Q, Th phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

- Người làm chứng: Chị Dương Hà L, Ông Đỗ Trọng C, Ông Phạm Văn Tr - đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 23 giờ 05 phút ngày 08/8/2020, tại tổ 1, khu 3B, phường Quang Hanh, Th phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, Nguyễn Minh T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,284gam ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị Công an bắt quả tang.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Khoảng 22 giờ 20 phút ngày 08/8/2020, Tsử dụng điện thoại gắn sim số 0383074093 gọi đến số điện thoại 0336.251991 cho đối tượng tên Th (không rõ lai lịch, địa chỉ) hỏi mua 400.000 đồng ma túy đá để sử dụng. Sau đó Tđiều khiển xe mô tô biển số 14B1-126.90 mượn của ông Nguyễn Văn Đ(bố đẻ Trí) chở Dương Hà L (chung sống như vợ chồng) đến đường 02/9 phường Cẩm Trung, Th phố Cẩm Phả gặp và đưa cho Th 400.000 đồng. Th đi vào ngõ một lúc sau quay lại đưa cho túi ma túy đá. Tcất giấu vào túi quần rồi chở L về nhà thì bị bắt quả tang, thu giữ túi ma túy trên. L không biết việc Tmua ma túy của Th. Ông Đích không biết Tmượn xe mô tô 14B1- 126.90 để đi mua ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 1097/GĐMT ngày 12/8/2020, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong túi nilon thu giữ của Nguyễn Minh T là ma túy; Loại: Methamphetamine; Khối lượng: 0,284gam. Hoàn lại đối tượng giám định: 0,23 gam.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn Đ khai : Tối ngày 08/8/2020 ông ở nhà thì con trai ông là Nguyễn Minh T mượn xe mô tô biển số 14B1- 126.90, khi cho mượn ông không biết việc T sử dụng vào việc đi mua ma túy. Ông đã được cơ quan điều tra trả lại xe và không có ý kiến gì khác.

Tại bản Cáo trạng số: 212/CT-VKSCP ngày 12/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Th phố Cẩm Phả truy tố Nguyễn Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Cẩm Phả trình bày lời luận tội giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị hội đồng xét xử: Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T mức án từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Áp dụng: Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự: Tịch thu và tiêu hủy ma túy; trả lại cho bị cáo số tiền 70.000đ; tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại Nokia của bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Cẩm Phả, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Cẩm Phả, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được qui định trong Bộ luật Tố tụng hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên toà bị cáo khai nhận hành vi cất giữ 0,284 gam Methamphetamine với mục đích sử dụng đúng như bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên toàn hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra đồng thời phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của những người làm chứng, vật chứng thu giữ và kết luận giám định số 1097/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của bị cáo đủ yêu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự nên có cơ sở chấp nhận lời luận tội của đại diện viện kiểm sát nhân dân Thành phố Cẩm Phả tại phiên tòa.

[3] Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy mà còn tiếp tay cho các đối tượng mua bán ma tuý khác gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Mặc dù hiểu rõ tác hại của ma túy, do ý thức chấp hành pháp luật kém bị cáo đã cất giữ ma túy trong người với mục đích sử dụng, do đó cÇn cã mét h×nh ph¹t nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[4] Xét tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo nên xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5] Xét nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

[6] Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự: Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung song xét bị cáo là đối tượng nghiện, không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung.

[7] Về vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ trong vụ án: 01 túi ma túy; 01 điện thoại; 70.000đ, 01 xe máy Honda Dream biển số 14B1-126.90; Xét 0,23 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1097/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh là vật nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu và tiêu hủy; 01 điện thoại Nokia, là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước; số tiền 70.000đ là tài sản của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo. Chiếc xe mô tô biển số 14B1-126.90 quá trình điều tra xác định là tài sản của bị cáo mượn của ông Nguyễn Văn Đ không liên quan đến tội phạm cơ quan điều tra đã trả lại cho ông Đ đến nay ông Đ không còn ý kiến nào khác nên không đề cập.

Đối tượng tên Th, theo bị cáo khai là người bán ma túy cho bị cáo tuy nhiên không rõ lai lịch, địa chỉ nên cơ quan điều tra tiếp tục điều tra xác minh, làm rõ xử lý sau.

[8] VÒ ¸n phÝ: BÞ c¸o phải chịu án phí h×nh sù sơ thẩm.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Nguyễn Minh T phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt: Nguyễn Minh T 15(mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt ngày 09/8/2020.

Về vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

- Tịch thu, tiêu huỷ 01 phong bì còn nguyên dấu niêm phong số 1097/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh;

- Trả lại cho bị cáo số tiền 70.000đ (bảy mươi nghìn đồng);

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động kèm theo 01 sim;

Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng số 38 ngày 26/11/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả.

Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo phải chịu 200.000đ phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 222/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:222/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:30/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về