Bản án 222/2020/HS-ST ngày 01/12/2020 về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH ĐỒNG NAI 

BẢN ÁN 222/2020/HS-ST NGÀY 01/12/2020 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Hôm nay ngày 01 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện L, xét xử kín sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 231/2020/HSST ngày 04 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 226/2020/HSST-QĐ ngày 17 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Hà Văn V, sinh năm: 1981. Tại Thái Nguyên.

Nơi đăng ký thường trú: tổ 9, ấp H, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp: Công nhân. Trình độ học vấn: 09/12.

Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc Tịch: Việt Nam. Giới tính: Nam.

Con ông Hà Hữu K và bà Nguyễn Thị L.

Gia đình có 04 chị em, bị cáo là con thứ 3 trong gia đình.

Vợ Nguyễn Thị Hoài Ph, có 02 con. Lớn nhất sinh 2006, nhỏ sinh 2016.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tại ngoại. (bị cáo có mặt).

+ Bị hại:

Cháu Nguyễn Thị Lan A, sinh ngày 02/8/2006.

Người đại diện hợp pháp cho cháu A: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm: 1986.

Ông Nguyễn Văn V, sinh năm: 1984.

Cùng cư trú: tổ 22, ấp 1C, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cháu Nguyễn Thị Lan A: Bà Nguyễn Thị Hoài Thương – Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đồng Nai.

Đại diện UBND xã P nơi bị hại đang cư trú: Bà Nguyễn Ngọc Na – Công chức tư pháp hộ tịch UBND xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

Đại diện Nhà trường nơi bị hại đang học tập: Bà Lê Thị Tân – Trưởng ban nữ công Trường THCS PT, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

(cháu A vắng mặt, bà T, ông V, bà Phương, bà Na bà Tân có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hà Văn V, sinh năm 1981 và cháu Nguyễn Thị Lan A, sinh ngày 02/8/2006 là hàng xóm. Nhà của bị cáo V và cháu A ở đối diện nhau (cách nhau một lối đi chung) tại tổ 22, ấp 1C, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

Lúc 19 giờ ngày 14/8/2020, sau khi uống rượu với bạn về, bị cáo V đi bộ qua nhà cháu A để xin mì gói. Lúc này, V quan sát thấy không có ai ở nhà, chỉ có cháu A đang chơi điện thoại trong phòng khách nên V nãy sinh ý định quan hệ tình dục với cháu A. V nói với cháu A “Xuống đây bác bảo”, nói xong V đi xuống bếp trước, cháu A đi theo sau, trên tay cháu A vẫn cầm điện thoại nhắn tin. Tại phòng bếp, V dùng tay ôm vòng qua lưng cháu A, dùng tay sờ bóp ngực cháu A đồng thời lấy điện thoại mà cháu A đang sử dụng để lên đầu tủ kính rồi xoay người cháu A lại, V hôn vào mặt, ngực và dùng tay sờ vào âm đạo của cháu A, thấy cháu A không có phản ứng gì nên V dùng tay cởi quần ngoài, quần lót cháu A sau đó thực hiện hành vi quan hệ tình dục với cháu A rồi xuất tinh xuống nền nhà bếp. Sau khi quan hệ tình dục xong, cháu A đi vào tắm còn V đi về nhà. Đến ngày 17/8/2020, chị Nguyễn Thị T mẹ ruột của cháu A nghi ngờ, xem lại camera an ninh của gia đình thì phát hiện Hà Văn V có hành vi quan hệ tình dục với cháu A nên trình báo Công an và có yêu cầu xử lý hành vi của V.

Quá trình điều tra, Hà Văn V còn khai nhận, ngoài lần giao cấu với cháu A ngày 14/8/2020 trước đó V còn giao cấu với cháu A 02 lần. Lần 01 vào giữa tháng 07/2020 và lần 02 vào đầu tháng 08/2020 (không nhớ rõ ngày, giờ), cả hai lần trên V đều thực hiện hành vi giao cấu với cháu A tại phòng bếp nhà cháu A, hai lần này do dương vật không cương cứng nên không xuất tinh được vào âm đạo cháu A.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 0697/DT/2020 ngày 19/8/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Nai kết luận giám định pháp y về tình dục của Nguyễn Thị Lan A: Màng trinh hình tròn, đường kính lỗ trinh 02cm, màng trinh rách cũ vị trí 02 giờ và 09 giờ, bờ mép vết rách không phù nề, không xung huyết, không chảy máu.

- Kết quả xét nghiệm: Không tìm thấy tinh trùng trong dịch âm đạo.

- Kết quả siêu âm: Phụ khoa chưa thấy bất thường.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và gia đình bị hại đã thỏa thuận bồi thường xong với số tiền 250.000.000 đồng.

Bản cáo trạng số: 244/CT-VKSLT ngày 03/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện L đã truy tố bị cáo Hà Văn V về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Người đại diện hợp pháp cho cháu A: Bà T (mẹ ruột) xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, vì sau khi thực hiện hành vi phạm tội bản thân bị cáo đã ăn năn hối cải, bồi thường thiệt hại, đề nghị Hội đồng xét xử tạo điều kiện cho bị cáo sớm trở về gia đình để lo cho vợ, con.

Tại phiên tòa Người đại diện cho cháu A: Ông Vương (là cha ruột) có ý kiến, bị cáo đã biết ăn năn hối cải, bản thân ai cũng có lỗi lầm, bị cáo biết sửa sai, là hàng xóm chưa bao giờ phát sinh mâu thuẫn. Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L vẫn bảo lưu quan điểm truy tố đối với bị cáo V tại Bản cáo trạng số: 244/CT-VKSLT ngày 03/11/2020. Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 145; điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và đề nghị xử phạt bị cáo Hà Văn V mức án từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cháu Nguyễn Thị Lan A: Bà Nguyễn Thị Hoài Thương trình bày: Bà hoàn toàn nhất trí với nội dung luận tội của Viện kiểm sát, về trách nhiệm dân sự giữa bị cáo và gia đình bị hại đã thỏa thuận bồi thường xong, bà không còn yêu cầu gì khác cho phía bị hại.

Đại diện Trường Trung học cơ sở PT, bà Tân trình bày: Bà thống nhất với ý kiến đề nghị Viện kiểm sát, đề nghị xử theo pháp luật. Hiện cháu Lan Anh vẫn đi học bình thường.

Đại diện UBND xã P, bà Na trình bày: đề nghị xét xử theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, bản thân bị cáo đã nhận ra lỗi lầm, đã ăn năn hối cải.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, đại diện hợp pháp cho người bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Bị cáo Hà Văn V là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo, bị hại, cùng các tài liệu chứng cứ tại hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở xác định.

Lúc 19 giờ ngày 14/8/2020, tại phòng bếp của nhà bà Nguyễn Thị Tlà mẹ ruột cháu Nguyễn Thị Lan A, bị cáo Hà Văn V đã thực hiện hành vi giao cấu với cháu Nguyễn Thị Lan A, sinh ngày 02/8/2006, khi V thực hiện hành vi giao với cháu Lan Anh, cháu Nguyễn Thị Lan A đã từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (14 tuổi 12 ngày). Ngoài ra, bị cáo còn khai nhận trước đó bị cáo cũng đã giao cấu với cháu Lan Anh hai lần, lần 01 vào khoảng giữa tháng 7/2020 và lần 02 đầu tháng 8/2020, cả hai lần này bị cáo không nhớ rõ giờ, ngày. Hành vi trên của bị cáo, bị Viện kiểm sát nhân dân huyện L truy tố về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”, bị cáo đã phạm tội từ 02 lần trở lên. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện L truy tố bị cáo V theo điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự năm 2015, sữa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sự phát triển bình thường về thể chất và sinh lý của trẻ em độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.

Bản thân bị cáo Hà Văn V vẫn nhận thức hành vi giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là vi phạm pháp luật, lợi dụng sự non nớt của trẻ em chưa phát triển đầy đủ về tâm, sinh lý và sức khỏe do đó thực hiện hành vi giao cấu với đối tượng này sẽ gây nguy hiểm cho sự phát triển bình thường của các em. Đặc biệt là gây tác hại về đạo đức, nhân cách, ảnh hưởng đến danh dự, phẩm giá của các em cả hiện tại lẫn về sau.

Người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là những người còn hạn chế về nhận thức, kinh nghiệm sống nên dễ bị rủ rê. Lợi dụng các yếu tố này bị cáo đã thực hiện hành vi trái đạo đức của mình. Vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng hành vi, hậu quả mà bị cáo đã gây ra. Xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử có xem xét cho bị cáo V có nhân thân tốt thể hiện chưa có tiền án, tiền sự, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo cũng đã bồi thường thiệt hại cho bị hại, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, tại phiên tòa người đại diện hợp pháp bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa bị cáo V không thắc mắc gì về kết luận giám định pháp y về tình dục số 0697/DT/2020 ngày 19/8/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Nai.

[4]. Về trách nhiệm dân sự: Giữa bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị hại đã thỏa thuận bồi thường xong. Bị hại không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

[5]. Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại, ý kiến của đại diện chính quyền địa phương hổ trợ, bảo vệ cho bị hại và ý kiến của nhà trường nơi bị hại đang học tập đã được Hội đồng xét xử đã xem xét, cân nhắc trong quá trình nghị án.

[6]. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 145; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Hà Văn V phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.

Xử phạt: Hà Văn V 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày bắt đi thi hành án.

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo V phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, đại diện hợp pháp cho bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 222/2020/HS-ST ngày 01/12/2020 về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

Số hiệu:222/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về