Bản án 222/2017/HSST ngày 19/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 222/2017/HSST NGÀY 19/07/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 19/7/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 234/2017/HSST ngày 08/6/2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 228/2017/QĐXX - HSST ngày 04/7/2017 đối với các bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1991.

HKTT: Thôn Th, xã T, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.

Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh.

Con ông: Nguyễn Văn T, sinh năm 1963 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1969; Gia đình bị cáo có 2 chị em, bị cáo là thứ 2; Vợ Con: chưa có.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Năm 2011 bị Công an huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang ra quyết định xử phạt hành chính về hành vi Cố ý gây thương tích.( Chưa nộp tiền)

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/02/2017 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại trại Tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh, có mặt tại phiên toà.

Nguyễn Văn L, sinh năm 1992.

HKTT: Thôn Th, xã T, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.

Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh.

Con ông: Nguyễn Văn T, sinh năm 1966 và bà Lưu Thị C, sinh năm 1968; Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là thứ 2; Vợ Con: chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/02/2017 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại trại Tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh, có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bản cáo trạng số 133/2017/CTr - VKS ngày 08/6/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh truy tố Nguyễn Văn L và Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tóm tắt nội dung vụ án như sau: Khoảng 10h30’ ngày 24/02/2017, tại khu vực Bãi tha ma thuộc khu 5, phường Thị Cầu, thành phố Bắc Ninh tổ công tác Công an phường Thị Cầu phối hợp với Công an phường Đáp Cầu phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn L và Nguyễn Văn T có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã bắt giữ L, T cùng toàn bộ tang vật đưa về trụ sở công an phường lập biên bản phạm tội quả tang, niêm phong tang vật gửi đi giám định.

Vật chứng thu giữ: Thu tại dưới đất cạnh nơi T đang đứng 01 gói nhỏ bọc ngoài bằng giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng.

Tại bản kết luận giám định số 329/KLGĐ- PC54 ngày 24/02/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong 01 gói nhỏ màu trắng có trọng lượng 0,2877 gam. Loại ma túy: Chất Heroine”

Quá trình xét hỏi tại cơ quan điều tra bị cáo L và T đều đã khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 10h ngày 24/02/2017, L và T dủ nhau đi mua ma túy về sử dụng chung. Sau đó L và T góp mỗi người 50.000 đồng, L đưa tiền cho T. T cầm tiền và cùng L bắt xe ôm của một người đàn ông không quen biết đi lên khu vực Bãi tha ma thuộc khu 5 phường Thị Cầu, thành phố Bắc Ninh để mua ma túy. Đến nơi, T và L xuống xe còn người xe ôm đi đâu L và T không biết. Tại đây T và L gặp 01 người đàn ông không quen biết, T hỏi người đàn ông: “Có ma túy bán không?”, người đàn ông trả lời “Có”. T đưa cho người đàn ông 100.000 đồng, người này nhận tiền và đưa lại cho T 01 gói giấy bạc màu trắng. T biết bên trong gói giấy bạc có ma túy nên nhận và cầm ở tay phải sau đóT và L cùng đi vào Bãi tha ma để sử dụng. Vừa đi được 1 đoạn thì gặp tổ công tác Công an phường Thị Cầu phối hợp với Công an phường Đáp Cầu đang đi tuần tra, do sợ nên T đã ném gói ma túy vừa mua xuống đất cạnh chỗ T đang đứng. Tổ công tác thấy T và L có biểu hiện nghi vấn đã kiểm tra bắt giữ T và L cùng tang vật.

Tại cơ quan điều tra, bị cáo L, T khai nhận tội, lời khai của người làm chứng phù hợp với lời khai của các bị cáo.

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo L, T khai như đã khai tại cơ quan điều tra, thừa nhận hành vi phạm tội của các bị cáo như Cáo trạng truy tố là đúng nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh thực hiện quyền công tố tại phiên tòa phát biểu quan điểm luận tội đã đưa ra những chứng cứ, lý lẽ kết tội đối với các bị cáo. Sau khi phân tích hành vi phạm tội, căn cứ nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên các bị cáo Nguyễn Văn T và Nguyễn Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng: Khoản 1, Điều 194; điểm p, khoản 1, Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự.

Áp dụng Nghị quyết 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016. Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015 về việc áp dụng các quy định có l cho người phạm tội. Xử phạt:

Bị cáo Nguyễn Văn T từ 18 đến 20 tháng tù.

Bị cáo Nguyễn Văn L từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

Về tang vật: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư số 329/KLGĐ - PC54 ngày 24/02/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh.

Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng truy tố là đúng, không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Sau khi thẩm tra các chứng cứ có trong hồ sơ, nghe lời khai của các bị cáo, ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận; trên cơ sở xem xét toàn diện, đầy đủ chứng cứ, cụ thể: Lời khai của T và L phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ và tang vật thu giữ do vậy HĐXX xét thấy đã có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 10h30’ ngày 24/02/2017 Nguyễn Văn L và Nguyễn Văn T đã có hành vi cất giữ bất hợp pháp 0,2877 gam ma túy, là chất Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của các bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” phạm vào khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh đã truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại địa phương, gây dư luận không tốt trên địa bàn. Mặt khác, như chúng ta điều biết ma túy là hiểm họa của loài người, ngoài việc tiêu tốn tiền cho cơn nghiện, nguy hại hơn việc sử dụng ma túy là nguyên nhân lây truyền căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS trong cộng đồng; làm ảnh hưởng tới sức khỏe bản thân, giống nòi...Ma túy còn gây nhiều hệ lụy khác cho xã hội. Do vậy, cần có một hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi mà các bị cáo đã phạm mới có dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét vai trò, tính chất của vụ án thì thấy, trong vụ án này hai bị cáo T và L chỉ là đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều là đối tượng nghiện ma túy, hai người cùng dủ nhau mỗi bị cáo cùng góp số tiền 50.000 đồng để mua ma túy với mục đích sử dụng chung, không có sự bàn bạc, phân công nhiệm vụ cụ thể nên hai bị cáo có vai trò ngang nhau.

Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo thì thấy: Bị cáo L khi phạm tội chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo T có 01 tiền sự, tháng 6/2011 bị cáo bị Công an huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang xử phạt hành chính về hành vi Cố ý gây thương tích, bị phạt mức tiền là 1.000.000 đồng nhưng bị cáo chưa chấp hành quyết định trên do vậy bị caó phải chịu trách nhiệm về tội mình đã phạm. Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, do vậy cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo khi lượng hình thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước. Đồng thời căn cứ Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc Hội về Thi hành Bộ luậ Hình sự; Nghị Quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 về việc lùi hiệu lực thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 và Công văn số 276/TANDTC-PC ngày 13/9/2016 của TANDTC hướng dẫn áp dụng quy định có l cho người phạm tội của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 chỉ có khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù nên cần áp dụng khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.

Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo và đề nghị của Đại điện Viện kiểm sát thành phố Bắc Ninh là có căn cứ và phù hợp, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo T và bị cáo L ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới giúp các bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản và thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền với các bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Số mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư số 329/KLGĐ- PC54 ngày 24/02/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay.

Liên quan trong vụ án này: Có người đàn ông đã bán ma túy cho T và L nhưng cả hai bị cáo đều không biết rõ tên, tuổi và địa chỉ cụ thể của người này. Do vậy Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với người đàn ông lái xe ôm chở T và L đến Bãi tha ma, khi T và L xuống xe người đàn ông đi đâu, T và L không biết, do vậy cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh không đề cập xử lý là phù hợp.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 99 Bộ luật hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1, Điều 194; điểm p, khoản 1, Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự; Điều 228 Bộ luật tố tụng hình sự; Tuyên bố Nguyễn Văn L và Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc Hội. Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015 về việc áp dụng các quy định có l cho người phạm tội.

Xử phạt: Nguyễn Văn T 17(Mười bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/02/2017.

Nguyễn Văn L 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/02/2017.

Quyết định tạm giam các bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án 19/7/2017 để đảm bảo thi hành án.

- Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định trong phong bì thư dán kín niêm phong có số 329/KLGĐ- PC54 ngày 24/02/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh. (Theo biên bản bàn giao vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Bắc Ninh ngày 26/5/2017).

- Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định án phí và lệ phí Tòa án buộc Nguyễn Văn L và Nguyễn Văn T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Các Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 222/2017/HSST ngày 19/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:222/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về