TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LƯƠNG SƠN, TỈNH HÒA BÌNH
BẢN ÁN 22/2021/HSST NGÀY 14/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 14 tháng 5 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 16/2021/TLST - HS ngày 09 tháng 4 năm 2021 theo. Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2021/QĐXXST- HS ngày 29 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:
Đàm Văn D. Tên gọi khác: không; sinh ngày 16/12/1980; nơi cư trú: Xóm ĐB, xã HS, huyện LS, tỉnh HB; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa:
09/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Đàm Văn B, sinh năm 1958 và con bà Lê Thị H, sinh năm 1958; Vợ: Bạch Thị S, sinh năm 1984; con: có 02 con, lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2011.
Tiền án: 01 tiền án. Bản án số 54/2018/HSST ngày 20/8/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình xử phạt 12 tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đã chấp hành xong án phạt tù theo Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số 1351/GCN ngày 27/9/2019 của cục C10 Trại giam Thanh Lâm.
Tiền sự: 02 tiền sự: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 000968/QĐ - XPHC ngày 05/7/2020 của Công an phường Dân Chủ, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình xử phạt Đàm Văn D về hành vi “ Trộm cắp tài sản”; Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường, thị trấn số 199/QĐ - UBND ngày 22/10/2020 của Ủy ban nhân dân xã Hòa Sơn quyết định biện pháp giáo dục tại xã phường thị trấn đối với Đàm Văn D thời gian là 03 tháng.
Tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/12/2020 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Chị Bạch Thị S, sinh năm 1984 Trú tại: Thôn ĐB, xã HS, huyện LS, tỉnh HB
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Sáng ngày 20/12/2020 Đàm Văn D, sinh năm 1980 dùng xe máy nhãn hiều SYM, loại xe Star BKS 33L8 - 5463 của vợ là chị Bạch Thị S, sinh năm 1984 có cùng hộ khẩu ở thôn ĐB, xã HS, huyện LS, tỉnh HB đi từ nhà ra khu vực thị trấn XM, huyện CM, thành phố HN để uống Methadone, khi uống Methadone xong, D đi ra khu vực ngã ba XM có gặp người đàn ông tên là T ( D không biết họ tên đầy đủ và địa chỉ cụ thể của T, chỉ nghe T nói nhà ở XM, CM, HN, T cùng uống thuốc Methadone tại cơ sở điều trị Methadone XM, CM, HN với D). Khi gặp D hỏi T “ anh có hàng không” ( Có nghĩa là D hỏi T có ma túy loại Heroin bán không), T trả lời “ có”. D bảo T bán cho 160.000 đồng tiền ma túy loại Heroin. T đồng ý bán ma túy cho D, khi mua được ma túy, D đi về qua chợ XM mua xilanh và nước cất. D pha ma túy và nước cất để vào xi lanh, sau đó D cất xilanh vào túi áo khoác trong bên trái D đang mặc.Khi đi đến khu vực nhà hoang thuộc TH, xã HS, huyện LS, tỉnh HB để chuẩn bị sử dụng ma túy thì bị Công an huyện Lương Sơn phát hiện bắt giữ.
Tại bản kết luận giám định số: 39206/C09 - TT2 ngày 29/12/2020 của Viện khoa học hình sự - Bộ công an kết luận: tìm thấy Heroin trong mẫu chất lỏng không màu gửi giám định. Thể tích mẫu 0,5l; Nồng độ Heroin: 25,99mg/ml; khối lượng Heroin: 0,013gam.
Cáo trạng số 14/CT - VKSLS ngày 07/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Sơn truy tố bị cáo Đàm Văn D về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Sơn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Đàm Văn D về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy ” như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249 ; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 136, điểm a, khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự xử phạt bị cáo Đàm Văn D từ 18 đến 24 tháng tù.
* Vật chứng vụ án:
Tịch thu tiêu hủy: 01 Phong bì nguyên vẹn, mặt trước ghi “ BỘ CÔNG AN, VIỆN KHOA HỌC HÌNH SỰ”, Số 9206/C09 - TT2; Kính gửi: Cơ quan CSĐT- Công an huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình; Mẫu vật hoàn sau giám định”, mặt sau tại các mép dán có dấu tròn niêm phong của Viện khoa học hình sự Bộ công an và chữ ký của người liên quan; 01 xi lanh nhựa loại 03ml đã qua sử dụng.
- 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM, loại xe Star màu đỏ có BKS 33L8- 5463, xe đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng ( đã trả cho chủ sở hữu) nên không đề cập.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Bị cáo không có tranh luận gì, lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo được hưởng mức án thấp.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận và trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]Về tố tụng: Tội phạm xảy ra tại thôn Tân Hòa, xã Hòa Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình, bị cáo bị truy tố theo điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự có mức cao nhất của khung hình phạt là 05 năm, theo quy định tại Điều 268, 269 Bộ luật tố tụng hình sự là thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình.
Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lương Sơn, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa, bị cáo không có ai khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.
[2] Về tội danh, điều luật: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Đàm Văn D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với vật chứng thu giữ được và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, như vậy đã có đủ căn cứ kết luận:
Vào sáng ngày 20/12/2020 tại khu vực nhà hoang thuộc thôn TH, xã HS, huyện LS, tỉnh HB Đàm Văn D đã có hành vi tàng trữ trong người 0,013gam ma túy loại Heroin. Mặc dù khối lượng ma túy chưa đủ 0,1gam nhưng bị cáo đã có một tiền án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy chưa được xóa án tích nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Sơn truy tố bị cáo Đàm Văn D về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm a khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Bản thân bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của ma túy nhưng do xem thường pháp luật, nhằm thỏa mãn nhu cầu bản thân nên bị cáo đã tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng.
[4]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về nhân thân bị cáo Dương: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, có nhân thân xấu, bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích; 02 tiền sự nhưng không thấy đó là bài học cho bản thân mà vẫn tiếp tục phạm tội.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có một tiền án về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tuy nhiên lần phạm tội này khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ chỉ 0,013gam nên tình tiết này là tình tiết định tội theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự nên không áp dụng là tình tiết tăng nặng theo điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để Hội đồng xét xử xem xét cân nhắc khi lượng hình đối với bị cáo.
Xét tính chất nghiêm trọng của loại tội phạm về ma túy, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện, Hội đồng xét xử thấy cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian theo quy định tại Điều 38 Bộ luật hình sự đề cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
[5]. Xét bị cáo hoàn cảnh kinh tế khó khăn, bị cáo bị tàng trữ ma túy với mục đích sử dụng, không có tính chất vụ lợi nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6]. Đối với người đàn ông tên Hoàng Anh T, sinh năm 1977, HKTT: XS, xã TXT, huyện CM, thành phố HN mà bị cáo D khai mua ma túy, Cơ quan CSĐT công an huyện Lương Sơn đã tiến hành lấy lời khai đối với T. Tuy nhiên T không thừa nhận hành vi bán ma túy cho D, mà chỉ thừa nhận quen biết D do cùng điều trị Methadone tại Cơ sở điều trị Methadone XM. Do đó Cơ quan điều tra công an huyện LS chưa đủ căn cứ để khởi tố đối với Hoàng Anh T về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy. Cơ quan CSĐT Công an huyện Lương Sơn tách ra tiếp tục điều tra xác minh làm rõ, khi nào xác minh được đủ căn cứ tiến hành xử lý theo quy định pháp luật.
[7]. Về vật chứng vụ án:
- 01 Phong bì nguyên vẹn, mặt trước ghi “ BỘ CÔNG AN, VIỆN KHOA HỌC HÌNH SỰ”, Số 9206/C09 – TT2; Kính gửi: Cơ quan CSĐT - Công an huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình; Mẫu vật hoàn sau giám định”, mặt sau tại các mép dán có dấu tròn niêm phong của Viện khoa học hình sự Bộ công an và chữ ký của người liên quan.
- 01 xi lanh nhựa loại 03ml đã qua sử dụng.
Số ma túy thu của bị cáo được niêm phong bằng phong bì thư là vật Nhà nước cấm lưu hành, sử dụng, xi lanh nhựa không có giá trị sử dụng cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
- 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM, loại xe Star màu đỏ có BKS 33L8- 5463, xe đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng ( đã trả cho chủ sở hữu).
Quá trình điều tra xác minh xác định chiếc xe mô tô này thuộc sở hữu hợp pháp của chị Bạch Thị S, sinh năm 1984,HKTT: thôn ĐB, xã HS, huyện LS, tỉnh HB. Ngày 20/12/2020 chị S đưa xe cho D đi uống thuốc Methadone tại cơ sở điều trị Xuân Mai, chị S không biết D sử dụng chiếc xe vào việc tàng trữ trái phép chất ma túy. Xác định xe mô tô trên là tài sản hợp pháp của chị S và không liên quan đến vụ án. Cơ quan điều tra Công an huyện Lương Sơn đã trả lại cho chị S nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326 của Ủy ban thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí.
Vì các lẽ trên!
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 249 ; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 268, Điều 269, Điều 136,điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về thu nộp án phí, lệ phí Tòa án:
1. Tuyên bố bị cáo: Đàm Văn D phạm tội: “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” Xử phạt bị cáo Đàm Văn D 18 ( Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/12/2020.
2. Vật chứng vụ án:
* Tịch thu tiêu hủy:
- 01 Phong bì nguyên vẹn, mặt trước ghi “ BỘ CÔNG AN, VIỆN KHOA HỌC HÌNH SỰ”, Số 9206/C09 – TT2; Kính gửi: Cơ quan CSĐT- Công an huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình; Mẫu vật hoàn sau giám định”, mặt sau tại các mép dán có dấu tròn niêm phong của Viện khoa học hình sự Bộ công an và chữ ký của người liên quan.
- 01 xi lanh nhựa loại 03ml đã qua sử dụng.
Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lương Sơn theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT công an huyện Lương Sơn,tỉnh Hòa Bình với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình ngày 08/4/2021.
3. Về án phí: Bị cáo Đàm Văn D phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 22/2021/HSST ngày 14/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 22/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lương Sơn - Hoà Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về