Bản án 22/2021/HSST ngày 11/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN PHƯỚC, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 22/2021/HSST NGÀY 11/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 13/2021/TLST-HS ngày 18/3/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2021, đối với bị cáo: Họ và tên: Trương Thanh N, sinh ngày 26 tháng 01 năm 2003 tại: Thành phố M. Nơi cư trú: Thôn 02, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Cha: Không rỏ, mẹ: Trương Thị H, sinh năm 1985; Gia đình có ba anh, em, bị cáo là con thứ nhất chưa có vợ con; Tiền án: Không.

Ngày 27/02/2020 bị Tòa án nhân dân quận N, thành phố Đ xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội trộm cắp tài sản, thời gian thử thách là 24 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 27/02/2020 (nhưng bị cáo thuộc trường hợp không có án tích);

Tiền sự: Ngày 02/4/2020, bị Công an xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh nhau”, hình thức phạt tiền 375.000 đồng (Ba trăm bảy mươi lăm nghìn đồng y) đã chấp hành xong ngày 13/7/2020. Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Có mặt tại phiên tòa;

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Trương Ngọc Tr, Trợ giúp viên, Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Nam. Có mặt.

- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo: Bà Trương Thị H, sinh năm 1985, địa chỉ: Thôn 02, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam; Có mặt.

- Bị hại: Anh Lê Quang T (X), sinh năm 1998. Địa chỉ: Thôn 05, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam; Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vụ án:

Ông Lê Quang T, sinh năm 1959, địa chỉ: Thôn 05, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam; Có mặt.

Anh Nguyễn Hoàng Ph, sinh năm 2003, địa chỉ: Thôn 04, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam; Vắng mặt.

Chị Trương Thị H, sinh năm 1985, địa chỉ: Thôn 02, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam; Có mặt.

Ông Huỳnh Nh, sinh năm 1956, địa chỉ: Thôn 02, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam; Vắng mặt.

Chị Lê Thị Vi N, sinh năm 1989, địa chỉ: 201 Trần Cao Vân, thành phố T, tỉnh Quảng Nam; Vắng mặt.

Anh Trần Xuân Tuấn Ph, sinh năm 1987, địa chỉ: 201 Trần Cao Vân, thành phố T, tỉnh Quảng Nam; Vắng mặt.

- Người làm chứng:

Anh Nguyễn Văn Th, sinh năm 1975, địa chỉ: Thôn 04, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ ngày 27/9/2020, Trương Thanh N đi xe buýt từ thành phố T về thị trấn T, huyện T rồi đi bộ đến tiệm internet Nhật Thành tại khối phố T, thị trấn T, huyện T để chơi game. Tại đây Trương Thanh N gặp anh Lê Quang T cũng đang ngồi chơi game. Sau khi chơi game xong, Lê Quang T điều khiển xe mô tô biển số 92N7-1345 chở Trương Thanh N về nhà của gia đình T tại thôn 5, xã T, huyện T chơi và ở lại qua đêm. Đến khoảng 13 giờ ngày 28/9/2020, Lê Quang T điều khiển xe mô tô biển số 92N7-1345 chở Trương Thanh N đến tiệm internet Nhật T chơi game. Tại đây Trương Thanh N ngồi chơi game ở máy vi tính bên trái máy vi tính mà Lê Quang T ngồi chơi và cách nhau 01 máy vi tính ở giữa. Đến khoảng 16 giờ, Trương Thanh N hỏi Lê Quang T: “Anh cho em mượn xe đi xuống trọ bạn em tí” thì Lê Quang T đồng ý nên Trương Thanh N đi ra sân, điều khiển xe mô tô biển số 92N7-1345 đi chơi.

Đến khoảng 16 giờ 20 phút, Trương Thanh N điều khiển xe mô tô biển số 92N7-1345 quay lại tiệm internet Nhật T, dựng xe mô tô biển số 92N7-1345 ở sân rồi vào trong tiệm tiếp tục chơi game. Đến khoảng 19 giờ 20 phút, Trương Thanh N thấy Lê Quang T đang chơi game và đeo tai nghe nên Trương Thanh N nhắn tin cho Lê Quang T để xin ngủ nhờ qua đêm thì Lê Quang T quay sang trả lời: “Không được, tối nay anh bận đi Tam Kỳ”. Do không có chổ ở qua đêm nên đến khoảng 20 giờ, Trương Thanh N đứng dậy và nói: “Em về trước anh Tiến nghe” rồi đi bộ một mình đến khu vực gần trường THPT Phan Châu Tr tìm phòng trọ của bạn xin ở nhờ qua đêm nhưng không được nên Lê Quang T đi bộ quay lại tiệm internet Nhật Th. Đến khoảng 20 giờ 20 phút, Trương Thanh N quay lại đến sân tiệm internet Nhật Th thì thấy xe mô tô biển số 92N7-1345 của Lê Quang T vẫn còn dựng ở sân tiệm internet Nhật Th nên nảy sinh ý định trộm cắp xe môtô này để đi về nhà. Khi đó Trương Thanh N đi vào trong tiệm internet, ngồi vào máy vi tính mà Trương Thanh N đã chơi game trước đó, truy cập Facebook và nhìn xem Lê Quang T có còn chơi game không. Khi thấy Lê Quang T vẫn còn chơi game, không để ý thì Trương Thanh N đi ra sân, ngồi lên xe mô tô biển số 92N7-1345, bật chống xe, đạp nổ máy và điều khiển xe mô tô chạy theo đường 10/3 hướng về chợ T rồi chạy qua cầu chìm Sông Tiên, đi theo đường Quốc lộ 40B về nhà của gia đình N tại thôn 02, xã T, huyện T. Sau đó Trương Thanh N điều khiển xe mô tô biển số 92N7-1345 đi xem múa lân, khi đi đến đoạn đường gần nhà của Nguyễn Hoàng Ph thì Trương Thanh N gặp Nguyễn Hoàng Ph nói chuyện và bán xe mô tô biển số 92N7-1345 cho Nguyễn Hoàng Ph với giá 500.000 đồng rồi quay về nhà. Đến sáng ngày 29/9/2020 ông Nguyễn Văn Th là cha ruột của Nguyễn Hoàng Ph biết Nguyễn Hoàng Ph mua xe mô tô của Trương Thanh N nên gọi điện thoại thông báo cho Trương Thị H là mẹ Trương Thanh N biết. Nghi ngờ Trương Thanh N trộm cắp xe mô tô của người khác nên Trương Thị H hỏi Trương Thanh N thì Trương Thanh N thừa nhận đã trộm cắp xe mô tô biển số 92N7- 1345 đem bán cho Nguyễn Hoàng Ph với số tiền 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng y) và đã tiêu xài hết 340.000 đồng (Ba trăm bốn mươi nghìn đồng y). Khi đó chị Trương Thị H lấy số tiền 160.000 đồng (Một trăm sáu mươi nghìn đồng y) còn lại của Trương Thanh N và bỏ thêm vào số tiền 340.000 đồng (Ba trăm bốn mươi nghìn đồng y) rồi đến nhà Nguyễn Hoàng Ph chuộc lại xe mô tô biển số 92N7-1345 giá 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng y) đem về, yêu cầu Trương Thanh N đem xe trả lại cho bị hại. Đến khoảng 18 giờ ngày 30/9/2020, Trương Thanh N điều khiển xe mô tô biển số 92N7-1345 đi đến đoạn đường trước nhà Lê Quang T tại thôn 05, xã T, huyện T bỏ xe mô tô biển số 92N7-1345 tại đây. Sau đó gia đình Lê Quang T phát hiện được xe mô tô biển số 92N7-1345 nên đem giao nộp cho Công an thị trấn T, huyện T để điều tra, xử lý.

Tại Biên bản định giá và kết luận giá tài sản trong tố tụng hình sự số: 45/2020 ngày 28 tháng 10 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tiên Phước kết luận giá trị của xe mô tô bị trộm cắp nêu trên là 4.500.000 đồng (Bốn triệu, năm trăm nghìn đồng y).

Tại bản Cáo trạng số: 17/CT-VKSTP- HS ngày 18 tháng 3 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Phước đã truy tố bị cáo Trương Thanh N về tội “Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015(Sửa đổi bổ sung năm 2017). Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo theo như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm h, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38, 91, 101 Bộ luật Hình sự năm 2015(Sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Trương Thanh N từ 6 đến 9 tháng tù. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 55, 56 Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

- Một xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE, màu xanh, biển số 92N7-1345, xe có một kính chiếu hậu bên trái, số khung: HHC09063Y414502, số máy bị trầy xước một đoạn cuối chỉ đọc được các ký tự: HC09E4141.

- Một Giấy đăng ký mô tô, xe máy số 0119233, tên chủ xe: Huỳnh Nh, địa chỉ:

thôn 2, xã T, Núi T, Quảng Nam, biển số 92N7-1345.

Xét thấy, các vật chứng nêu trên có liên quan đến một vụ án khác tại huyện T, tỉnh Quảng Nam nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam đã chuyển cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam để xử lý là đúng quy định của pháp luật.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Lê Quang T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Lê Quang T xin được nhận lại xe mô tô biển số 92N7-1345 và không có yêu cầu Trương Thanh N bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên quá trình điều tra xác định xe mô tô biển số 92N7-1345 là tài sản của ông Huỳnh Nh bị mất trộm nên cơ quan điều tra không trả lại xe mô tô biển số 92N7-1345 và Giấy đăng ký của xe mô tô này cho Lê Quang T, Lê Quang T được. Vì vậy, Lê Quang T xin tự giải quyết vấn đề dân sự liên quan đến việc mua bán xe mô tô biển số 92N7-1345 với tiệm cầm đồ B của Lê Thị Vy N và Trần Xuân Tuấn Ph tại thành phố T theo Hợp đồng mua bán xe số 627/HĐMBX.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan đến vụ án Nguyễn Hoàng Ph, Trương Thị H không yêu cầu Trương Thanh N bồi thường thiệt hại.

Người bào chữa cho bị cáo Trương Thanh N trình bày luận cứ bào chữa: Thống nhất với Cáo trạng, luận tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Kiểm sát viên đề nghị áp dụng cho bị cáo, tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử cần xem xét đến ý thức tự nguyện bồi thường thiệt hại của bị cáo, bởi vì: Sau khi mẹ của bị cáo chị Trương Thị H phát hiện hành vi trộm cắp xe máy của bị cáo, chị H đã mang số tiền 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng y) đưa cho anh Nguyễn Hoàng Ph để lấy lại xe máy trộm cắp để bị cáo mang đi trả cho anh Lê Quang T. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 (Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại) để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị hại, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vụ án không có ý kiến tranh luận gì.

Tại phiên tòa, bị cáo Trương Thanh N thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình theo như Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra Công an huyện Tiên Phước, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Phước, Điều tra viên, Kiểm sát viên thu thập được, các chứng cứ, tài liệu do người tham gia tố tụng cung cấp cũng như hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều đảm bảo tính pháp lý, đúng quy định của pháp luật. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa, bị cáo Trương Thanh N khai nhận: Để có phương tiện dùng vào việc đi lại và có tiền tiêu xài cá nhân, vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 28/9 /2020, lợi dụng sở hở của anh Lê Quang T trong việc quản lý tài sản, Trương Thanh N đã lén lút trộm một xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE, màu xanh, biển số 92N7-1345 có giá trị 4.500.000 đồng (Bốn triệu, năm trăm nghìn đồng y).

[3]. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở để kết luận hành vi của Trương Thanh N phạm tội "Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015(Sửa đổi, bổ sung năm 2017) như cáo trạng đã truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Phước là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4]. Vấn đề liên quan đến vụ án: Đối với Nguyễn Hoàng Ph đã có hành vi mua xe mô tô biển số 92N7-1345 của Trương Thanh N nhưng không biết đó là xe mô tô do Trương Thanh N trộm cắp mà có, Nguyễn Hoàng Ph không có ý thức cố ý mua xe mô tô trộm cắp, ngoài ra trước đó Trương Thanh N có liên lạc với Nguyễn Hoàng Ph nói có ý định bán xe mô tô của gia đình nên khi mua mô tô biển số 92N7-1345, Nguyễn Hoàng Ph không nghi ngờ đây là xe mô tô do Trương Thanh N trộm cắp mà có nên không xử lý đối với Nguyễn Hoàng Ph là phù hợp.

Xe mô tô biển số 92N7-1345 và Giấy đăng ký của xe mô tô này là vật chứng trong vụ trộm cắp tài sản xảy ra tại thị trấn Núi Thành, huyện T nên cơ quan điều tra chuyển cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Núi Thành thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền là phù hợp.

[5]. Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và trách nhiệm của bị cáo thì thấy: Quyền sở hữu tài sản là một trong những quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo vệ, bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác đều bị pháp luật trừng trị. Với mục đích muốn có tiền để tiêu xài, bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của người bị hại thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.

[6]. Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo Trương Thanh N có nhân thân không tốt, ngày 27/02/2020 bị Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội trộm cắp tài sản với thời gian thử thách là 24 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 27/02/2020 (nhưng bị cáo thuộc trường hợp không có án tích); Ngày 02/4/2020, bị Công an xã Tiên Hiệp, huyện Tiên Phước xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh nhau”. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn. Vì vậy, bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, tại phiên tòa, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, vì vậy bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, không có tình tiết tăng nặng nhưng xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo có tính nguy hiểm cao cho xã hội, bị cáo không ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, việc cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian là cần thiết, để cho bị cáo có điều kiện cải tạo thành công dân tốt. Từ những phân tích nêu trên xét thấy luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo tại phiên tòa là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[7]. Xét đề nghị của người bào chữa cho bị cáo về việc áp dụng điểm b, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 ( Người phạm tội tự nguyện sữa chữa bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả) Hội đồng xét xử nhận thấy: Số tiền 500.000 đồng ( Năm trăm nghìn đồng y) mà chị Trương Thị H đưa cho Nguyễn Hoàng Ph chỉ là số tiền chuộc lại tài sản do bị cáo trộm cắp chứ không phải là số tiền bị cáo cùng với gia đình khắc phục thiệt hại cho người bị hại theo quy định của Điều luật. Người bị hại trong vụ án là anh Lê Quang T chứ không phải là Nguyễn Hoàng Ph. Do vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu của người bào chữa về việc áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo.

[8]. Về phần trách nhiệm dân sự: Bị hại, người liên quan đã thỏa thuận giải quyết về vấn đề thiệt hại, không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

[9]. Về xử lý vật chứng: Xe mô tô biển số 92N7-1345 và Giấy đăng ký của xe môtô này là vật chứng trong vụ trộm cắp tài sản hiện nay có liên quan đến vụ án khác xảy ra tại thị trấn T, huyện T nên cơ quan điều tra Công an huyện Tiên Phước chuyển cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Núi Thành thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền là phù hợp.

[10]. Về án phí hình sự : Bị cáo Trương Thanh N phải chịu án phí theo quy định tại Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trương Thanh N phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, các điểm h, s khoản 1, 2 Điều 51, 38, 55, 56, 91, 101 Bộ luật Hình sự năm 2015(Sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Xử phạt bị cáo Trương Thanh N 09 (Chín) tháng tù. Tổng hợp hình phạt của Bản án số: 09/2020/HS-ST, ngày 27/02/2020 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn thành phố Đà Nẵng xử phạt bị cáo 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (Hai mươi bốn) tháng tính từ ngày 27/2/2020. Buộc bị cáo phải chấp hành chung một mức án là 21 (Hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt đi chấp hành án.

Về án phí: Bị cáo Trương Thanh N phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng ) tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 11/5/2021). Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

325
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2021/HSST ngày 11/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:22/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Phước - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về