Bản án 22/2021/HN-ST ngày 04/05/2021 về tranh chấp ly hôn và quyền nuôi con khi ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÀNG LONG, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 22/2021/HN-ST NGÀY 04/05/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ QUYỀN NUÔI CON KHI LY HÔN 

Ngày 04 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Càng Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 41/2021/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 01 năm 2021. Về tranh chấp ly hôn và quyền nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2021/QĐXXST – HN ngày 01 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lê Thị Trúc G, sinh năm 1981. Địa chỉ: Tổ 2, ấp M, phường M X, thị xã B, tỉnh Vũng Tàu. (vắng mặt, có đơn xin vắng mặt).

Bị đơn: Ông Lê Văn T, sinh năm 1980. Địa chỉ: ấp S 2, xã M, huyện C, tỉnh Trà Vinh. (vắng mặt, không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Lê Thị Trúc G trình bày: Bà với ông T do tìm hiểu quen biết nhau, được gia đình hai bên đồng ý đi đến hôn nhân, tổ chức lễ cưới vào năm 2010 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện C, tỉnh Trà Vinh vào ngày 19/3/2010, nữ trang cưới có cho nhưng không còn.

Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, cùng đi làm thuê và sinh sống tại Vũng Tàu, nhưng đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn do bất dồng quan điểm về kinh tế, dẫn đến thường xuyên cự cãi, ông T bỏ về nhà cha mẹ ruột tại ấp S 2, xã M sống, vợ chồng không hàn gắn được và đã ly thân nhau cho đến nay.

Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không thể hàn gắn lại với nhau được nữa, bà yêu cầu được ly hôn với ông T.

Về con chung: Tên Lê Cao H, sinh ngày 15/10/2011; hiện nay đang sống chung với bà G. Khi ly hôn bà yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, về cấp dưỡng nuôi con thì chưa đặt ra yêu cầu.

Về tài sản chung; Về nợ chung phải thu, phải trả: Bà G khai không có, không đặt ra yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông Lê Văn T vắng mặt nên không có lời trình bày.

Vị đại điện Viện kiểm sát nhân dân huyện Càng Long trình bày quan điểm cho rằng: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi Tòa án thụ lý đến thời điểm này thẩm phán đã chấp hành đúng quy định theo Điều 48 của Bộ luật tố tụng dân sự, đảm bảo về thẩm quyền, quan hệ tranh chấp, xác định tư cách người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, thời gian ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử, gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát, cấp tống đạt các văn bản tố tụng, đã thực hiện đầy đủ và đúng quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa Hội đồng xét xử thực hiện đầy đủ và đúng theo trình tự pháp luật quy định của phiên tòa sơ thẩm.

Việc chấp hành pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng đối với nguyên đơn thực hiện đúng theo quy định Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện nghiêm quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Vị đại diện Viện kiểm sát áp dụng khoản 1 Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Áp dụng các Điều 19, 51, 53, 54, 56, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Trúc G.

Về hôn nhân: Cho bà Lê Thị Trúc G với ông Lê Văn T được ly hôn.

2. Về con chung: Bà Lê Thị Trúc G được quyền nuôi dưỡng cháu Lê Cao H, sinh 15/10/2011.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Do bà Lê Thị Trúc G chưa đặt ra yêu cầu, đề nghị không xem xét.

4. Về tài sản chung và về nợ chung phải thu phải trả: Do đương sự không yêu cầu, đề nghị không xem xét.

5. Về án phí: Đương sự có nghĩa vụ nộp theo quy định pháp luật, trừ trường hợp miễn nộp hoặc không phải nộp.

Tại phiên tòa vắng mặt bà Lê Thị Trúc G là nguyên đơn và ông Lê Văn T là bị đơn; bà G có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, ông T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, trên cơ sở xem xét toàn diện chứng cứ, ý kiến của các đương sự trong vụ án. Tòa án nhân dân huyện Càng Long nhận định:

Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Bà G khởi kiện yêu cầu ly hôn và quyền nuôi con với ông T. Đây là tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà G có nơi cư trú tại Tổ 2, ấp M phường M X, thị xã B, tỉnh Vũng Tàu. Ông T có nơi cư trú tại ấp S 2, xã M, huyện C, tỉnh Trà Vinh. Căn cứ vào khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Càng Long có thẩm quyền giải quyết vụ án.

Về nội dung:

[3] Bà G và ông T xác lập quan hệ hôn nhân năm 2010, có đăng ký kết hôn tại xã M, huyện C, tỉnh Trà Vinh theo quy định của pháp luật được thể hiện tại giấy chứng nhận kết hôn số 32 ngày 19/3/2010. Từ đó xác định hôn nhân giữa bà G với ông T là hôn nhân hợp pháp.

[4] Xét về nguyên nhân mâu thuẫn: Theo bà G cho rằng do vợ chồng bất đồng quan điểm về kinh tế, dẫn đến thường xuyên cự cãi nên ông T đã về nhà cha mẹ ruột sống và vợ chồng sống ly thân nhau từ 2015 cho đến nay không thể hàn gắn được.

Căn cứ vào biên bản xác minh từ phía bà Lê Thị L là mẹ ruột của ông T cho rằng trước đây ông T đã có một đời vợ, có chung đứa con gái, nhưng đã ly hôn. Sau khi ly hôn vợ trước thì ông T đi làm thuê nên có quen biết bà G, gia đình hai bên đồng ý đi đến hôn nhân năm 2010, sau cưới thì vợ chồng đi làm lâu lâu mới về nhà bên chồng, cuộc sống hạnh phúc sinh đứa con trai. Nhưng thời gian cách đây khoảng hơn hai năm thì bà có nghe nói vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, ông T về nhà bà sống, còn bà G thì không thấy về, nghe nói cự cãi nhau, phía bà và ông T có đến gặp bà G cùng với mẹ của bà G để tìm cách hàn gắn cho bà G với ông T nhưng không kết quả cho đến nay. Khi biết bà G khởi kiện thì bà có trao đổi với ông T, ý kiến ông T không đồng ý ly hôn, sau đó ông T đi làm cùng với người em gái tại Q N đến lễ tết thì về nhà bà, từ khi đi làm ông T có tìm cách hàn gắn không thì bà không biết. Xét thấy vợ chồng phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau để phát triển về mọi mặt thì mới xây dựng gia đình hạnh phúc, mà đằng này bà G và ông T người nào chỉ biết bổn phận người đó bỏ mặc sống sao thì sống không ai quan tâm ai. Và tại các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án bà G cũng xác định tình cảm vợ chồng giữa bà và ông T không còn, hàn gắn không hạnh phúc.Từ đó nhận thấy mâu thuẫn giữa bà G với ông T là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà G. Cho bà G và ông T được ly hôn với nhau là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5] Về con chung: Cháu Lê Cao H, sinh ngày 15/10/2011 hiện đang sống bà G. Khi ly hôn bà G yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy hiện nay bà G là người đang trực tiếp nuôi dưỡng cháu H; bên cạnh cháu H có lời khai thể hiện nguyện vọng muốn được sống với bà G. Do đó để đảm bảo tốt về điều kiện nuôi dưỡng cũng như thuận tiện cho việc chăm sóc cháu H. Hội đồng xét xử xét thấy khi ly hôn giao bà G được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu H là phù hợp với Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[6] Về cấp dưỡng nuôi con: Do bà G chưa đặt ra yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về tài sản chung; Về nợ chung phải thu, phải trả: Đương sự chưa đặt ra yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì bà G có nghĩa vụ chịu án phí theo quy định.

Ông T không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147; Điều 227; 228; 238 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 19, 51, 53, 54, 56, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Trúc G.

Về hôn nhân: Bà Lê Thị Trúc G và ông Lê Văn T được ly hôn.

2. Về con chung: Tên Lê Cao H, sinh ngày 15/10/2011 giao bà G được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, trông nom, giáo dục.

Sau khi ly hôn, người không nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Do bà Lê Thị Trúc G chưa đặt ra yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về tài sản chung; về nợ chung phải thu, phải trả: Do đương sự chưa đặt ra yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

5. Về án phí sơ thẩm: Bà Lê Thị Trúc G có nghĩa vụ nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân. Đối với số tiền 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí mà bà G đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2020/0004072 ngày 06 tháng 01 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện C được khấu trừ số tiền án phí mà bà G có nghĩa vụ chịu, do đó bà G không phải nộp.

Ông Lê Văn T không phải chịu án phí.

Bà Lê Thị Trúc G và ông Lê Văn T có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ”.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 02 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưởng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 06; Điều 07 và Điều 09 của Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2021/HN-ST ngày 04/05/2021 về tranh chấp ly hôn và quyền nuôi con khi ly hôn 

Số hiệu:22/2021/HN-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Càng Long - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về